Bản án 18/2019/HS-ST ngày 02/07/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CẦN GIỜ, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 18/2019/HS-ST NGÀY 02/07/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 02 tháng 7 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cần Giờ, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 04/2019/TLST-HS ngày 29 tháng 01 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 11/2019/TLST-HS ngày 21 tháng 3 năm 2019 đối với bị cáo:

Bùi Tấn L(tên gọi khác: Gấu), sinh ngày 20/7/1988, Nơi sinh: thành phố Hồ Chí Minh; Hộ khẩu thường trú: 40 ấp 2, xã P, huyện N, TP.H; Nghề nghiệp: không; trình độ học vấn: không biết chữ; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Bùi Văn Đ, sinh năm : 1966 và bà Nguyễn Thị U, sinh năm: 1968;

Tiền án:

- Bản án số 35/2014/HSST ngày 19/11/2014 củaTòa án nhân dân huyện Cần Giờ xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, đến ngày 27/01/2016 chấp hành xong hình phạt tù, chưa chấp hành xong toàn bộ bản án nên chưa được xóa án tích.

- Bản án số 70/2019/HS-ST ngày 24/4/2019 của Tòa án nhân dân Quận 8, TP. Hồ Chí Minh bị xử phạt 02 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Tiền sự:

- Ngày 27/02/2011 bị đưa vào cơ sở chữa bệnh bắt buộc theo Quyết định số 46/QĐ ngày 25/01/2011 của Ủy ban nhân dân huyện Nhà Bè, TP. Hồ Chí Minh.

- Tháng 4 năm 2016 sử dụng trái phép chất ma túy bị Tòa án nhân dân Quận 4 áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh bắt buộc thời hạn 21 tháng. Tháng 01/2018 chấp hành xong.

Bị cáo bị tạm giam từ ngày 20/4/2018 và có mặt.

* Người bị hại:

1. Bà Lý Thị T, sinh năm: 1967(vắng mặt)

Địa chỉ: 274/3 KP M, thị trấn C, huyện C, TP. H.

2. Bà Nguyễn Thị Thanh C, sinh năm: 1987(vắng mặt)

Địa chỉ: 65/3B Tắc Xuất, KP M, thị trấn C, huyện C, TP. H

3. Bà Võ Thị B, sinh năm :1947 (vắng mặt)

Địa chỉ: tổ 3, ấp A, xã An, huyện C, TP.H.

4. Bà Phạm Thị Kim Ng, sinh năm:1983 (vắng mặt)

Địa chỉ: ấp B, xã BK, huyện C, TP.H.

5. Bà Huỳnh Hồng H, sinh năm :1987 (vắng mặt)

Địa chỉ: 95/3b KP M, thị trấn C, huyện C, TP. H.

6. Ông Vũ G, sinh năm : 1965 (vắng mặt)

Địa chỉ: 270 ấp BT, xã B, huyện C, TP.Hồ Chí Minh.

7. Ông Phạm Văn S, Quận :1964 (vắng mặt)

Địa chỉ: tổ 3, ấp A, xã An, huyện C, TP.H.

* Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

1. Ông Huỳnh Minh T, sinh năm :1980 (vắng mặt)

Địa chỉ: 579 Đoàn V B, phường X, Quận Y, thành phố Hồ Chí Minh.

2. Bà Nguyễn Thị Ng, sinh năm :1986 (vắng mặt)

Địa chỉ: 106/781H Nguyễn K, phường T, Quận G, TP.Hồ Chí Minh.

3. Bà Đường La Ngọc T, sinh năm :1977 (vắng mặt)

Địa chỉ: 18 Nguyễn Thị T, phường R, Quận P, thành phố Hồ Chí Minh

Địa chỉ liên hệ: 30-32 Nguyễn Thị T, phường R, Quận T, TP.Hồ Chí Minh

4. Bà Phạm Thị Hiếu E, sinh năm: 1966 (vắng mặt)

Địa chỉ: 575 Đoàn V B, phường G, Quận Q, TP.Hồ Chí Minh.

Địa chỉ liên hệ: 610 Đoàn V B, phường R, Quận Q, TP.Hồ Chí Minh

5. Ông Phan Th, sinh năm: 1976 (vắng mặt)

HKTT: 1115/9A KP3, phường P, Quận J, TP.Hồ Chí Minh.

Địa chỉ liên hệ: 478 NT T, phường S, Quận Q4, TP.Hồ Chí Minh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 24/10/2018, Bùi Tấn Lbị Công an Quận 8, Tp. Hồ Chí Minh bắt quả tang về hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và thu giữ một số tài sản Lmang theo. Qua điều tra, Lkhai nhận số tài sản gồm tiền, điện thoại, xe mà Công an Quận 8 thu giữ là vật chứng liên quan đến hành vi "Trộm cắp tài sản” do L thực hiện ở huyện Cần Giờ trong thời gian từ tháng 7 đến tháng 10 năm 2018, cụ thể như sau:

Vụ thứ nhất: Khoảng 07 giờ ngày 11/7/2018, Bùi Tấn Lđi xe buýt từ Quận 4 đến huyện Cần Giờ. Khoảng 10 giờ cùng ngày Lđi bộ đến nhà bà Lý Thị T tại số 274/3 khu phố M, thị trấn C, huyện C. Lquan sát thấy nhà bà T đóng khóa cửa bên ngoài, không ai trông coi nên Ltrèo qua hàng rào vào khuôn viên nhà rồi đi kiểm tra các cửa sổ thì phát hiện có 01 cửa sổ chỉ khép hờ không khóa. Ldùng tay mở cửa sổ leo vào nhà và đi tìm tài sản lấy trộm. Lthấy có 01 phòng ngủ đang đóng khóa nên tìm cách mở. Lđi xuống bếp lấy 01 con dao dài 33cm đục thủng 01 lỗ ngay giữa vị trí gần tay cầm cửa và đưa tay qua lỗ thủng mở khóa phía trong. Lmở cửa đi vào phòng lấy 01 điện thoại di động Iphone 5 bên trong hộc bàn trang điểm, Ltiếp tục tìm trong tủ nhưng không tìm được tài sản giá trị. Llấy con dao cạy két sắt nhưng không cạy được nên bỏ dao lại ngay dưới đáy tủ rồi qua phòng bên cạnh không khóa cửa lấy 01 máy tính xách tay hiệu HP và thoát ra ngoài theo hướng đột nhập. Sau đó, Lđem tài sản trộm được đến bán cho anh Phan Th là chủ tiệm Ngọc Th tại số 478 N T T, phường K Quận Q được số tiền 1.000.000 (một triệu) đồng và đã tiêu xài hết.

Bà T có đơn trình báo ngoài số tài sản trên còn bị mất trộm số tài sản gồm: 01 dây chuyền vàng Ý nặng 03 chỉ; 01 đôi bông tai vàng Ý nặng 01 chỉ, gắn đá kim cương 4,2 ly; 01 nhẫn vàng Ý nặng 1,5 chỉ, gắn đá kim cương 02 ly và 01 đôi bông tai ngọc trai. Lkhông thừa nhận nên Cơ quan điều tra đã tiến hành đối chất nhưng không có cơ sở xác định Lđã trộm cắp toàn bộ tài sản mà bà T trình báo.

Tại biên bản định giá tài sản số 15 ngày 27/7/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự xác định điện thoại và máy tính mà bà T bị mất trộm trị giá 3.602.000 (ba triệu sáu trăm lẻ hai nghìn đồng).

Vụ thứ hai: Vào khoảng 08 giờ, ngày 14/7/2018 Lđi xe buýt từ Quận Q đến huyện C, đến khoảng 10 giờ cùng ngày Lđi bộ đến nhà bà Võ Thị B tại tổ 03 ấp A, xã A, huyện C, TP. Hồ Chí Minh. Lquan sát thấy cửa nhà bà B khóa bên ngoài, không ai trông coi nên Lđột nhập vào nhà bà B bằng cách leo rào vào phía nhà sau. Llấy một cái thang gần đó leo thang lên hành lang phía nhà sau của lầu 01 đến vị trí cửa kéo, loại cửa xếp, đang đóng. Ldùng tay lòn qua khe cửa đưa tay vào trong mở ổ khóa đang móc hờ (không bị khóa) rồi mở cửa đi lên nhà trước lấy 01 cái ti vi ở trên bàn rồi thoát ra ngoài theo hướng đột nhập. Lđem ti vi qua khu vực Quận 7, TP. Hồ Chí Minh, bán cho 01 người phụ nữ không rõ lai lịch được số tiền: 1.000.000 (một triệu) đồng và tiêu xài hết số tiền trên.

Tại biên bản định giá số 26 ngày 22/11/2018 kết luận ti vi kể trên là: 3.360.000 (Ba triệu ba trăm sáu mươi nghìn) đồng.

Vụ thứ ba: Vào khoảng 7 giờ ngày 27/7/2018, Lđi xe buýt từ Quận 4 đến huyện Cần Giờ, đến khoảng 10 giờ cùng ngày Lđi bộ đến nhà bà Nguyễn Thị Thanh C tại: 65/3B đường T, khu phố M, thị trấn C, huyện C, TP. Hồ Chí Minh. Lquan sát thấy cửa nhà bà C đóng khóa bên ngoài, không ai trông coi nên Lđột nhập vào nhà bà C bằng cách leo rào vào phía nhà sau đến vị trí cửa sổ Ldùng tay tháo tấm kính và bẻ gãy 02 thanh nhôm khung cửa sổ rồi trèo vào nhà. Lđi vào phòng ngủ lấy trộm tài sản gồm: 01 dây chuyền vàng trắng hình viên bi nặng 05 chỉ; 01 vòng tay kiểu bằng vàng 18K, nặng 05 chỉ; 01 nhẫn kiểu bằng vàng 18K, nặng 03 chỉ, đang treo trên cái móc gắn ở bàn trang điểm; số tiền: 1.000.000 (một triệu) đồng ở trong tủ nhựa đựng quần áo bên ngoài phòng và thoát ra ngoài theo hướng đã đột nhập vào. Lkhai nhận sau đó đem dây chuyền đến bán cho anh Huỳnh Minh T, sinh năm: 1980, là chủ tiệm vàng AT, địa chỉ: 579 ĐVB, phường S , Quận Q, TP. Hồ Chí Minh, được số tiền: 4.000.000 (bốn triệu) đồng còn vòng tay và nhẫn thì Lđem đến bán cho bà Phạm Thị Hiếu E, sinh năm: 1966, là chủ tiệm vàng TT, địa chỉ: 610 ĐVB, phường S, Quận Q, TP. Hồ Chí Minh, được số tiền: 11.000.000đ (mười một triệu đồng), tổng cộng số tiền mà Lcó từ việc bán tài sản và số tiền trộm được là: 16.000.000đ (mười sáu triệu đồng), Lđã tiêu xài hết.

Anh Huỳnh Minh T không khai nhận mua dây chuyền do Lbán, cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an huyện Cần Giờ đã tiến hành đối chất giữa anh Tiến với Lnhưng không có kết quả.

Bà Phạm Thị Hiếu E khai do hằng ngày có nhiều khách ra vào mua bán, bà Em không nhớ Lcó vào tiệm để bán vàng hay không.

Tại biên bản định giá số 24 ngày 20/11/2018 có kết quả giá trị tài sản là: 21.302.400 (hai mươi mốt triệu ba trăm lẻ hai nghìn bốn trăm đồng), cộng với 1.000.000 (một triệu) đồng tiền mặt thì tổng tài sản bà C bị mất trộm là: 22.302.400 (Hai mươi hai triệu ba trăm lẻ hai nghìn bốn trăm đồng)

Vụ thứ tư: Vào khoảng 7 giờ ngày 03/8/2018, Lđi xe buýt từ Quận 4 đến huyện Cần Giờ, đến khoảng 10 giờ cùng ngày Lđi bộ đến nhà bà Phạm Thị Kim Ng tại: ấp B, xã B, huyện C, TP. Hồ Chí Minh. Lquan sát thấy cửa nhà bà Ng đóng khóa bên ngoài, không ai trông coi nên Lđột nhập vào nhà bà Ng bằng cách đi vòng xuống phía nhà sau đến vị trí cửa sổ bên hông Ldùng tay tháo tấm kính cửa sổ và bẻ gãy 02 thanh nhôm khung cửa sổ và trèo cửa sổ vào phòng ngủ lấy số tiền: 69.000.000đ (sáu mươi chín triệu đồng) và số trang sức bằng vàng gồm: 01 chiếc lắc vàng 18K, cân nặng 3,8 chỉ; 01 chiếc nhẫn vàng 18K, cân nặng 2,8 chỉ; 04 chiếc nhẫn vàng 24K, mỗi chiếc nặng 01 chỉ; 03 chiếc nhẫn vàng 24k, mỗi chiếc nặng 02 chỉ; 02 chiếc nhẫn vàng 24K, mỗi chiếc nặng 05 chỉ; 01 chiếc lắc vàng 18K, nặng 10 chỉ; 01 sợi dây chuyền vàng 18K, nặng 07 chỉ; 01 nhẫn vàng 18K, nặng 01 chỉ; 01 nhẫn vàng 24K, nặng 01 chỉ; 02 đôi bông tai vàng 18K, mỗi đôi nặng 0,5 chỉ; 01 mặt cẩm thạch cẩn vàng 18K, nặng 0,5 chỉ; 01 vòng cẩm thạch cẩn vàng 18K, nặng 01 chỉ, để ở trong 02 cái tủ nhựa đựng quần áo và thoát ra ngoài theo hướng đột nhập vào. Sau đó Lđem số vàng kể trên đến bán tiếp cho bà Phạm Thị Hiếu E, được số tiền: 70.000.000 (bảy mươi triệu) đồng. Tổng cộng số tiền mà Lcó từ việc bán vàng và số tiền trộm được là: 139.000.000 (một trăm ba mươi chín triệu) đồng. Lsử dụng số tiền: 200.000 (hai trăm nghìn) đồng đến tiệm mua, bán điện thoại, không rõ tên, địa chỉ, thuộc Quận 4, TP. Hồ Chí Minh để mua 01 điện thoại di động Nokia 2690. L đến gặp bà Hiếu Em mua lại 03 miếng vàng thẻ, mỗi miếng nặng 10 chỉ với số tiền 108.000.000 (một trăm lẻ tám triệu) đồng để thuận tiện trong việc cất giấu. Số tiền còn lại: 30.800.000 (ba mươi triệu tám trăm nghìn) đồng Ltiêu xài hết. Đến ngày 22/10/2018, Lđem 03 miếng vàng thẻ trên đến bán cho bà Đường La Ngọc T là chủ tiệm vàng K, địa chỉ: 30 – 32 NTT, phường Y, Quận X, TP. Hồ Chí Minh, được số tiền: 109.200.000 (một trăm lẻ chín triệu hai trăm nghìn) đồng. S Lđến tiệm mua bán xe gắn máy, không rõ tên, địa chỉ, thuộc Quận 8, TP. Hồ Chí Minh mua 01 chiếc xe Wave Anpha, biển số: 54V4-1224, số máy C12E-1634039, số khung Y080511 đã qua sử dụng với số tiền: 8.000.000 (tám triệu) đồng; Lđến tiệm mua bán điện thoại, không rõ tên, địa chỉ, thuộc Quận 4, TP. Hồ Chí Minh, mua 01 điện thoại di động Iphone 6s plus 16GB số IC: 579C-E2944A, đã qua sử dụng với số tiền 5.000.000 (năm triệu đồng; Sử dụng số tiền 1.200.000đ (một triệu hai trăm nghìn đồng) mua ma túy sử dụng; Sử dụng số tiền 400.000đ (bốn trăm nghìn đồng) vào việc ăn uống; Số tiền còn lại 94.600.000 (chín mươi bốn triệu sáu trăm nghìn) đồng thì Lcất giấu trong người, cho đến ngày 24/10/2018 Lbị bắt về hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và bị thu giữ 01 xe biển số: 54V4-1224; 02 điện thoại di động; số tiền 94.600.000 (chín mươi bốn triệu sáu trăm nghìn) đồng.

Bà Phạm Thị Hiếu E và bà Đường La Ngọc T khai do hằng ngày có nhiều khách ra vào mua bán nên không nhớ việc Lcó đến tiệm để bán vàng hay mua vàng thẻ hay không.

Tại biên bản định giá số 21 ngày 15/11/2018 kết luận giá trị tài sản bị mất của bà Ng là: 146.622.480 (một trăm bốn mươi sáu triệu sáu trăm hai mươi hai nghìn bốn trăm tám mươi) đồng, cộng với 69.000.000 (sáu mươi chín triệu) đồng tiền mặt. Tổng tài sản bị mất trộm là: 215.622.480 (Hai trăm mười lăm triệu sáu trăm hai mươi hai nghìn bốn trăm tám mươi) đồng.

Vụ thứ năm: Vào khoảng 08 giờ ngày 01/10/2018, Lđi xe buýt từ Quận 4 đến huyện Cần Giờ, đến khoảng 10 giờ cùng ngày Lđi bộ tiếp tục quay lại nhà bà Phạm Thị Kim Ng lần thứ hai để trộm cắp tài sản. Lquan sát thấy cửa nhà bà Ng đóng khóa bên ngoài, không ai trông coi nên Lđột nhập vào nhà bà Ng bằng cách đi vòng xuống phía nhà sau đến vị trí cửa sổ bên hông chỉ được khép lại bằng tấm kính bên ngoài còn 02 thanh nhôm của khung cửa sổ do Ldùng tay bẻ gãy trong vụ trộm trước đó vào ngày 03/8/2018 nhưng chủ nhà chưa sửa chữa lại. Lchỉ tháo lấy tấm kính xuống và trèo qua cửa sổ vào bên trong phòng ngủ. Llấy trộm 01 điện thoại di động iphone 3g S màu trắng; 01 máy ảnh Samsung Smart Camera FS70 màu hồng; 01 máy tính xách tay Acer màu bạc và số tiền: 2.000.000 (hai triệu) đồng, ở trong 02 tủ nhựa đựng quần áo và thoát ra ngoài theo hướng đột nhập vào. Lđem tài sản kể trên đến bán cho anh Phan Th được số tiền: 1.500.000 (một triệu năm trăm nghìn) đồng. Tổng cộng số tiền mà Lcó từ việc bán tài sản và số tiền trộm được là: 3.500.000 (ba triệu năm trăm nghìn) đồng, Ltiêu xài hết.

Anh Phan Th khai do hằng ngày có nhiều khách ra vào mua bán, anh Th không nhớ việc Lcó đến tiệm để bán điện thoại, máy ảnh, máy tính xách tay hay không.

Tại biên bản định giá số 23 ngày 20/11/2018, xác định giá trị tài sản nêu trên của bà Ng là: 5.557.500 (năm triệu năm trăm năm mươi bảy nghìn năm trăm) đồng, cộng với số tiền mặt 2.000.000 (hai triệu) đồng. Tổng tài sản bị mất trộm là: 7.557.500 (Bảy triệu năm trăm năm mươi bảy nghìn năm trăm) đồng.

Vụ thứ sáu: Vào khoảng 7 giờ ngày 03/10/2018, Lđi xe buýt từ Quận 4 đến huyện Cần Giờ, đến khoảng 10 giờ cùng ngày Lđi bộ đến nhà bà: Huỳnh Hồng H tại: 95/3b khu phố M, thị trấn C, huyện C, TP. Hồ Chí Minh. Lquan sát thấy cửa cổng nhà bà H đóng khóa bên ngoài, không ai trông coi nên Lđột nhập vào nhà bà H bằng cách dùng tay bẻ gãy 01 thanh sắt cửa cổng tạo thành 01 lỗ trống rồi chui người qua lỗ trống vào khuôn viên nhà. Lthấy căn nhà gồm 02 căn nhà nhỏ bên phải và bên trái theo hướng nhìn từ ngoài vào. Lđột nhập căn nhà bên phải trước bằng cách lấy dao, kéo, búa gần đó cạy từng thanh nhôm của cửa nhà rồi vào bên trong tìm tài sản nhưng không tìm được tài sản gì giá trị. Lquay ra tìm cách đột nhập căn nhà bên trái bằng cách dùng tay cầm lấy tay cầm của cửa đẩy mạnh vào bên trong làm cho chốt khóa tuột ra khỏi khoen cửa. Lvào nhà lấy số trang sức bằng vàng gồm: 02 chiếc nhẫn vàng 24K, trong đó 01 chiếc nặng 01 chỉ; 01 chiếc nặng 0,5 chỉ; 01 chiếc lắc kiểu lật bằng vàng 14K cân nặng 1,43 chỉ; 01 dây chuyền kiểu lật bằng vàng 14K cân nặng 1,06 chỉ; 01 chiếc vòng mo chạm bằng vàng 24K cân nặng 01 chỉ; 01 đôi bông tai khoen hột bằng vàng 10K cân nặng 0,49 chỉ; 01 đôi bông tai hột trái châu chìm bằng vàng 18K cân nặng 1,29 chỉ; 01 chiếc nhẫn hột trái châu chìm bằng vàng 18K cân nặng 0,93 chỉ; 01 cái hột hình trái châu chìm bằng vàng 18K cân nặng 0,49 chỉ; 01 cái vòng hột hình trái châu chìm bằng vàng 18K cân nặng 3,26 chỉ; 01 sợi dây chuyền trái khế bằng vàng 18K cân nặng 2,34 chỉ; 01 chiếc lắc tay hình tròn hột đá trắng bằng vàng 18K cân nặng 3,02 chỉ; 01 cặp nhẫn cưới bằng vàng Ý cân nặng 6g13; 01 vòng đeo tay bằng vàng Ý, cân nặng 21g92; 01 sợi dây chuyền bằng vàng Ý, cân nặng 10g76; 01 mặt dây chuyền hình thoi bằng vàng Ý cân nặng 4g61; 01 đôi bông tai bằng vàng Ý cân nặng 2g79; 01 chiếc vòng đeo tay bằng vàng 10K hình mắt xích hột tấm trên có ghi ký hiệu PNJ 416; 01 chiếc nhẫn bằng vàng 10K hột tấm trên có ghi ký hiệu PNJ 416; 01 đôi bông tai xoắn đính hột màu xanh vàng 18K và số tiền 700.000 (bảy trăm nghìn) đồng ở trong ngăn trên cùng của tủ nhựa đựng quần áo; lấy 01 máy Ipad hiệu Apple, 01 điện thoại di động Iphone 5 ở trên kệ; lấy 01 điện thoại Nokia, 01 điện thoại Viettel, ở trên đầu tủ lạnh. Sau khi trộm tài sản, Lđể kéo, dao, búa lại phía trước cửa nhà bên phải rồi lấy 01 cái thang gần đó bắc qua hàng rào về hướng nhà nghỉ để thoát ra ngoài. Sau đó Lđem số vàng trắng 10K và vàng Ý đến bán cho anh Huỳnh Minh T được số tiền: 20.000.000 (hai mươi triệu) đồng, còn vàng Ý 14K, 18K, 24K thì Lđem đến bán cho bà Phạm Thị Hiếu E được số tiền 30.000.000 (ba mươi triệu) đồng. Số tài sản gồm: Ipad, điện thoại, Lđem bán cho anh Phan Th được số tiền 3.000.000 (ba triệu) đồng. Tổng cộng số tiền mà Lcó từ việc bán tài sản và số tiền trộm được là 53.700.000 (năm mươi ba triệu bảy trăm nghìn) đồng, trong đó Lsử dụng số tiền 36.000.000 (ba mươi sáu triệu) đồng đem đến gặp bà Hiếu Em mua 01 miếng vàng thẻ nặng 10 chỉ, để thuận tiện trong việc cất giấu, số tiền còn lại 17.700.000 (mười bảy triệu bảy trăm nghìn) đồng Ltiêu xài hết.

Ngày 22/10/2018, Lđem 01 miếng vàng thẻ trên đến bán cho bà Đường La Ngọc T được số tiền: 36.400.000 (ba mươi sáu triệu bốn trăm nghìn) đồng, Lcất giấu trong người.

Ngày 24/10/2018, Lbị Công an Quận 8 bắt về hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và bị thu giữ số tiền trên.

Anh Huỳnh Minh T khai có mua của L01 chiếc vòng đeo tay bằng vàng trắng 10K, trên có ghi ký hiệu PNJ 416 và 01 chiếc nhẫn bằng vàng trắng 10K, trên có ghi ký hiệu PNJ 416, không mua vàng Ý hay vàng trắng gì khác, cơ quan CSĐT Công an huyện Cần Giờ tiến hành đối chất giữa anh Tiến với Lnhưng không có xác định được anh Tiến đã mua số tài sản trên.

Bà Phạm Thị Hiếu E, Bà Đường La Ngọc T khai do hằng ngày có nhiều khách ra vào mua bán, bà Em không nhớ việc Lcó đến bán vàng hay mua vàng thẻ hay không.

Tại biên bản định giá số 22 ngày 15/11/2018, ban đầu xác định tài sản mà bà H bị mất trộm là: 104.385.845 (một trăm lẻ bốn triệu ba trăm tám mươi lăm nghìn tám trăm bốn mươi lăm) đồng nhưng sau đó căn cứ vào hóa đơn chứng từ và lời khai của bà H nhận thấy có sự thay đổi về đặc điểm tài sản đã bị mất nên cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an huyện Cần Giờ đã yêu cầu định giá lần hai. Tại biên bản định giá số 01 ngày 15/01/2019, xác định giá trị tài sản bà H nêu trên là 101.993.858 (một trăm lẻ một triệu chín trăm chín mươi ba nghìn tám trăm năm mươi tám) đồng, cộng với 700.000 (bảy trăm nghìn) đồng tiền mặt. Tổng tài sản bị mất trộm là: 102.693.858 (một trăm lẻ hai triệu sáu trăm chín mươi ba nghìn tám trăm năm mươi tám) đồng.

Vụ thứ bảy: Vào khoảng 09 giờ ngày 18/10/2018, Lđi xe buýt từ Quận 4 đến huyện Cần Giờ. Đến khoảng 11 giờ cùng ngày Llội qua một cái ao đến nhà ông Vũ G tại: 270 ấp B, xã B, huyện C, TP. Hồ Chí Minh. Lthấy cửa nhà ông Vũ G đóng khóa cửa bên ngoài không ai trông coi nên Lđi đến vị trí cửa sổ bên hông nhà rồi dùng tay tháo tấm kính và bẻ gãy 02 thanh nhôm của khung cửa sổ. Ltrèo qua cửa sổ vào phòng số 3 tính theo hướng từ trước vào rồi đi lên nhà trước lấy số tiền 1.000.000 (một triệu) đồng được đựng ở trong nhiều cái bao thư ở hộc tủ gần bàn máy vi tính. Lmở tủ kính lấy 26 cái hột quẹt Zippo và đi vào phòng số 01 lấy 01 cái đồng hồ đeo tay hiệu Nibosi trên cái bàn gần cửa phòng, lấy 01 máy chụp ảnh Sony trên cái bàn gần cửa sổ, lấy 01 máy tính bảng Lenovo phía dưới bàn. Khoảng 11 giờ 30 cùng ngày 18/10/2018, Lthực hiện xong việc trộm tài sản kể trên và đem vào phòng số 03 chuẩn bị đi ra thì nghe có tiếng người mở cửa. Lnghĩ là chủ nhà về nên đã bỏ lại toàn bộ tài sản ở trên giường rồi thoát ra ngoài theo hướng đột nhập vào.

Ông Vũ G trình báo khi đi làm lúc 08 giờ ngày 18/10/2018 đến 11 giờ 30 ngày 18/10/2018 về nhà thì phát hiện bị mất số tài sản kể trên. Lkhai bỏ lại số tài sản trộm được kể trên tại nhà ông Vũ G. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Cần Giờ tiến hành đối chất giữa ông Vũ G và Lnhưng không có kết quả.

Tại biên bản định giá số 25 ngày 22/11/2018, xác định tài sản mà ông Vũ G khai ở trên là: 7.443.000 (bảy triệu bốn trăm bốn mươi ba nghìn) đồng và 1.000.000 (một triệu) đồng tiền mặt. Tổng tài sản bị mất trộm là: 8.443.000 (tám triệu bốn trăm bốn mươi ba nghìn) đồng.

Vụ thứ tám: Vào khoảng 08 giờ ngày 19/10/2018, Lđi xe buýt từ Quận 4 đến huyện Cần Giờ. Khoảng 10 giờ cùng ngày Lđi bộ đến nhà ông Phạm Văn S tại: Tổ 03 ấp A, xã A, huyện C, TP. Hồ Chí Minh. Lthấy cửa nhà ông S đóng khóa bên ngoài, không ai trông coi nên Lđột nhập vào nhà ông S bằng cách đi vòng qua bên hông nhà đến vị trí cửa sổ. Ldùng tay tháo tấm kính và bẻ gãy 02 thanh nhôm của khung cửa sổ rồi trèo qua cửa sổ vào nhà, đến quầy của quán lấy chìa khóa ngay tại quầy mở hộc tủ lấy số tiền 500.000 (năm trăm nghìn) đồng, 01 gói thuốc 555 và đi ra ngoài theo hướng đã đột nhập vào.

Vụ thứ chín: Đến khoảng 11 giờ ngày 19/10/2018, trên đường về thì Llại đột nhập vào nhà của bà Phạm Thị Kim Ng lần thứ ba bằng cách đi vòng xuống phía nhà sau đến vị trí cửa sổ bên hông. Ldùng tay tháo tấm kính cửa sổ và bẻ gãy các thanh nhôm của khung cửa sổ, tiếp đó lấy cây tầm vông cạy khung sắt cửa sổ ra. Ltrèo qua cửa sổ vào phòng ngủ lấy 01 đôi bông tai vàng 18K nặng 0.6 chỉ ở trong tủ nhựa đựng quần áo, số tiền: 200.000 (hai trăm nghìn) đồng trong túi xách trên đầu tủ nhựa và đi ra khỏi nhà bằng cửa bên hông rồi trèo hàng rào phía nhà trước thoát ra ngoài. Sau đó Lđem đôi bông tai đến bán cho bà Phạm Thị Hiếu E được số tiền 1.100.000 (một triệu một trăm nghìn) đồng. Tổng cộng số tiền mà Lcó từ việc bán vàng và số tiền trộm được là: 1.800.000(một triệu tám trăm nghìn) đồng. Ltiêu xài hết số tiền trên còn gói thuốc lá thì Lđã sử dụng.

Qua làm việc thì bà Phạm Thị Hiếu E khai do hằng ngày có nhiều khách ra vào mua bán, bà Em không nhớ việc Lcó đến tiệm để bán vàng hay không.

Tại biên bản định giá số 27 ngày 22/11/2018 xác định tài sản của ông S nêu trên có giá trị là 25.000 (hai mươi lăm nghìn) đồng và 500.000 (năm trăm nghìn) đồng tiền mặt. Tổng giá trị tài sản bị mất trộm là 525.000 (năm trăm hai mươi lăm nghìn) đồng.

Kết quả định giá tài sản nêu trên của bà Ng là 1.599.900 (một triệu năm trăm chín mươi chín nghìn chín trăm) đồng và 200.000 (hai trăm nghìn) đồng tiền mặt. Tổng tài sản bị mất trộm là 1.799.900 (Một triệu bảy trăm chín mươi chín nghìn chín trăm) đồng.

Tổng số tài sản Lđã lấy trộm có giá trị theo kết quả định giá là 365.906.138 (Ba trăm sáu mươi lăm triệu chín trăm lẻ sáu nghìn một trăm ba mươi tám) đồng, cụ thể: Bà Lý Thị T bị mất trộm trị giá 3.602.000 (ba triệu sáu trăm lẻ hai nghìn) đồng.

Bà Nguyễn Thị Thanh C bị mất trộm là: 22.302.400 (Hai mươi hai triệu ba trăm lẻ hai nghìn bốn trăm) đồng.

Bà Võ Thị B bị mất trộm 3.360.000 (Ba triệu ba trăm sáu mươi nghìn) đồng Bà Phạm Thị Kim Ng bị mất trộm là 224.979.880 (Hai trăm hai mươi bốn triệu chín trăm bảy mươi chín ngàn tám trăm tám mươi) đồng.

Bà Huỳnh Hồng H bị mất trộm là 102.693.858 (một trăm lẻ hai triệu sáu trăm chín mươi ba nghìn tám trăm năm mươi tám) đồng.

Ông Vũ G bị mất trộm là 8.443.000 (tám triệu bốn trăm bốn mươi ba nghìn) đồng.

Ông Phạm Văn S bị mất trộm là 525.000 (năm trăm hai mươi lăm nghìn) đồng. Tại cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Cần Giờ, Bùi Tấn Lđã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã nêu trên.

Đối với số tài sản mà Ltrộm được sau đó đem bán với giá thấp không đúng với giá trị thực tế mà người bị hại đã khai báo thì qua làm việc Lkhai nhận: điện thoại, máy tính xách tay, máy ảnh, ti vi thì người mua thường lấy lý do đồ đã cũ nên mua giá thấp còn vàng thì khi mua chủ tiệm lấy lý do vàng lạ, không phải của tiệm nên mua vào giá thấp đồng thời khi bán thì Lkhông để ý cân nặng nên không rõ trọng lượng vàng khi người mua cân có đúng hay không.

Về trách nhiệm dân sự người bị hại là bà Võ Thị B, bà Nguyễn Thị Thanh C, ông Vũ G, ông Phạm Văn S và tất cả những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không yêu cầu bồi thường. Người bị hại là bà Lý Thị T yêu cầu bồi thường 100.000.000 (một trăm triệu) đồng; bà Phạm Thị Kim Ng yêu cầu bồi thường 100.000.000 (một trăm triệu) đồng; bà Huỳnh Hồng H yêu cầu bồi thường 50.000.000 (năm mươi triệu) đồng.

Cáo trạng số 11/CT-VKS ngày 20/3/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Cần Giờ truy tố bị cáo Bùi Tấn Lvề tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm a khoản 3 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố; đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Bùi Tấn Lphạm tội “Trộm cắp tài sản” theo qui định tại Điều 38, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm g, h khoản 1 Điều 52, điểm a khoản 3 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 để xử phạt Bùi Tấn Ltừ 11 (Mười một) năm đến 12 (Mười hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 24/10/2018.

Về vật chứng thu giữ: Tất cả đã hoàn trả cho chủ sở hữu là phù hợp nên không đề nghị xem xét.

Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại là bà Lý Thị T yêu cầu bồi thường 100.000.000 (một trăm triệu) đồng do không có cơ sở xác định bị cáo Lđã trộm toàn bộ số tài sản mà bà T trình báo nên đề nghị Hội đồng xét xử chỉ chấp nhận và buộc bị cáo bồi thường cho bà T số tài sản đã được định giá là 3.602.000 (ba triệu sáu trăm lẻ hai nghìn) đồng. Người bị hại bà Phạm Thị Kim Ng yêu cầu bồi thường 100.000.000 (một trăm triệu) đồng, bà Huỳnh Hồng H yêu cầu bồi thường 50.000.000 (năm mươi triệu) đồng là có cơ sở nên đề nghị chấp nhận các yêu cầu này. Riêng các bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khác trong vụ án có lời khai và đơn không yêu cầu bị cáo phải bồi thường nên không đề nghị xem xét.

Tại phiên tòa, bị cáo Bùi Tấn Lthừa nhận hành vi như cáo trạng là đúng, không có ý kiến tranh luận với luận tội của đại diện Viện kiểm sát. Lời nói sau cùng bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Trong các giai đoạn tố tụng từ khi khởi tố vụ án cho đến khi kết thúc việc truy tố, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Cần Giờ, Viện kiểm sát nhân dân huyện Cần Giờ, Điều tra viên, Kiểm sát viên đều thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự và thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Về tội danh: Tại phiên tòa, bị cáo Bùi Tấn Lkhai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, lời khai của bị cáo tại phiên tòa và tại cơ quan điều tra đều thống nhất với nhau, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác mà Cơ quan điều tra đã thu thập được cũng như diễn biến tại phiên tòa. Như vậy, đã có đủ cơ sở kết luận từ tháng 7 đến tháng 10 năm 2018, Bùi Tấn Lđã liên tục thực hiện nhiều vụ trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Cần Giờ với tổng số tài sản bị mất trộm theo kết quả định giá là 365.906.138 (Ba trăm sáu mươi lăm triệu chín trăm lẻ sáu nghìn một trăm ba mươi tám) đồng. Bị cáo Lđã đem toàn bộ tài sản và tiền trộm được để sử dụng cho việc cờ bạc, mua ma túy sử dụng và tiêu xài cho cá nhân.

Hành vi của bị cáo Lđã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm a khoản 3 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Cần Giờ truy tố bị cáo Bùi Tấn Lvề tội danh và điều luật trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng qui định của pháp luật.

[3] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo:

Xét khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo Bùi Tấn Lđã trưởng thành, đủ khả năng nhận thức được việc chiếm đoạt tài sản của người khác là hành vi vi phạm pháp luật nhưng do bị cáo xem thường quyền sở hữu tài sản của người khác, xem thường pháp luật nên bị cáo đã cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Bị cáo Llà người trong độ tuổi lao động, không biết chữ, không có nghề nghiệp ổn định, sống lang thang, không có lối sống tích cực cho bản thân, gia đình và có ích cho xã hội, không có ý thức chấp hành pháp luật.

Xét về nhân thân: bị cáo có 02 tiền sự về cùng hành vi sử dụng ma túy và có 02 tiền án cùng về tội “trộm cắp tài sản”.

Xét các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: khi bị cáo Lbị bắt quả tang về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy thì bị cáo đã khai nhận hành vi Trộm cắp tài sản, trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo qui định tại điểm r, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Xét tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo chưa được xóa án tích mà tiếp tục phạm tội, phạm tội nhiều lần nên áp dụng tình tiết tăng nặng theo điểm g, h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

Xét tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, xét các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo; xét nhân thân của bị cáo và khả năng tự cải tạo giáo dục của bị cáo; Hội đồng xét xử xem xét áp dụng mức hình phạt đối với bị cáo tương xứng với hành vi và mức độ phạm tội để nhằm mục đích răn đe, giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt có ích cho xã hội.

[4] Về xử lý vật chứng: Đối với vật chứng trong vụ án, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Cần Giờ đã trao trả lại cho chủ sở hữu là có căn cứ và phù hợp pháp luật.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại là bà Võ Thị B, bà Nguyễn Thị Thanh C, ông Phạm Văn S và tất cả những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không yêu cầu bồi thường, không có yêu cầu gì khác nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Đối với vụ trộm cắp tài sản tại nhà ông Vũ G, trong quá trình điều tra, truy tố bị cáo Lkhông thừa nhận đã lấy đi số tài sản mà ông Vũ G trình bày và không có chứng cứ nào khác để chứng minh. Ông Vũ G vắng mặt tại phiên tòa nhưng có đơn không yêu cầu bổi thường, dù thiệt hại thực tế không chứng minh được nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Xét người bị hại là bà Lý Thị T yêu cầu bồi thường 100.000.000 (một trăm triệu) đồng là không có cơ sở chấp nhận. Bởi không có chứng cứ để chứng minh bị cáo Lđã lấy trộm toàn bộ tài sản mà bà T trình báo mất. Vì vậy, bị cáo Lchỉ phải chịu trách nhiệm đối với giá trị của điện thoại và máy tính mà bà T bị mất trộm theo kết quả định giá là 3.602.000 (ba triệu sáu trăm lẻ hai nghìn) đồng.

Chấp nhận yêu cầu bồi thường thiệt hại của Bà Phạm Thị Kim Ng yêu cầu bồi thường 100.000.000 (một trăm triệu đồng) do thiệt hại thực tế lên đến 224.979.880 (Hai trăm hai mươi bốn triệu chín trăm bảy mươi chín ngàn tám trăm tám mươi) đồng và bà Huỳnh Hồng H yêu cầu bồi thường 50.000.000 (năm mươi triệu) đồng do thiệt hại thực tế lên đến 102.693.858 (một trăm lẻ hai triệu sáu trăm chín mươi ba nghìn tám trăm năm mươi tám) đồng.

[6] Về các tình tiết khác của vụ án:

Đối với những người đã thực hiện việc mua bán tài sản với Lkhông biết là tài sản do trộm cắp mà có nên không có căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự về tội: “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”.

Bị cáo Lkhai nhận sử dụng số tiền bán tài sản trộm được vào mục đích chơi cờ bạc nhưng không nhớ địa điểm, với ai, số tiền cụ thể nên không đủ cơ sở xử lý Lvề hành vi “Đánh bạc”.

[7] Về án phí: Bị cáo Bùi Tấn Lphải bàu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

[8] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo quy định tại Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Bùi Tấn Lphạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Căn cứ vào Điều 38, điểm r,s khoản 1 Điều 51, điểm g, h khoản 1 Điều 52, điểm a khoản 3 Điều 173, Điều 56 của Bộ luật Hình sự;

Xử phạt bị cáo Bùi Tấn L: 12 (Mười hai) năm tù.

Tổng hợp hình phạt với Bản án số 70/2019/HS-ST ngày 24/4/2019 của Tòa án nhân dân Quận 8, TP. Hồ Chí Minh, bị cáo Bùi Tấn Lphải chấp hành hình phạt chung của 02 bản án là 14 (Mười bốn) năm tù.

Thời hạn tù tính từ ngày 24/10/2018.

Tiếp tục giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.

Căn cứ Điều 589 Bộ luật Dân sự;

Bị cáo Lphải bồi thường thiệt hại về tài sản với tổng số tiền 153.602.000 (Một trăm năm mươi ba triệu sáu trăm lẻ hai nghìn) đồng, cụ thể bồi thường cho bà Lý Thị T số tiền 3.602.000 (ba triệu sáu trăm lẻ hai ngàn) đồng, bà Phạm Thị Kim Ng số tiền 100.000.000 (Một trăm triệu) đồng, bà Huỳnh Hồng H số tiền 50.000.000 (Năm mươi triệu) đồng, thực hiện ngay khi án có hiệu lực tại Chi cục Thi hành án Dân sự có thẩm quyền.

Kể từ ngày bà T, bà Ng, bà H có đơn yêu cầu thi hành án nếu bị cáo không trả số tiền nêu trên thì hàng tháng bị cáo còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự.

2.Về án phí: Căn cứ vào Khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự, điều 147 Bộ luật Tố tụng Dân sự và căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 23, Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội: bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (hai trăm nghìn) đồng và án phí dân sự sơ thẩm là 7.680.000 (bảy triệu sáu trăm tám mươi ngàn) đồng, nộp tại Chi cục Thi hành án Dân sự có thẩm quyền.

3.Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

302
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 18/2019/HS-ST ngày 02/07/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:18/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cần Giờ - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 02/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về