Bản án 18/2019/HNGĐ-ST ngày 29/01/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN H, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 18/2019/HNGĐ-ST NGÀY 29/01/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 29 tháng 01 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện H xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 357/2018/TLST-HNGĐ ngày 28 tháng 12 năm 2018 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:13/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 16 tháng 01 năm 2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Anh Trương Quốc Qu, sinh năm 1987

Địa chỉ: đội 1 X, xã Ph, huyện H, tỉnh Thanh Hóa

2. Bị đơn: Chị Lê Thị Nh, sinh năm 1992

Địa chỉ: thôn 1, xã Ng, huyện H, Thanh Hóa

Tại phiên tòa có mặt nguyên đơn anh Trương Quốc Qu, vắng mặt bị đơn chị Lê Thị Nh không có lý do dù đã được triệu tập hợp lệ.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 26/12/2018, bản tự khai ngày 04/01/2019 và lời trình bày tại phiên tòa của nguyên đơn anh Trương Quốc Qu thể hiện:

Tôi và cô Lê Thị Nh tự nguyện kết hôn được Ủy ban nhân dân xã Ng, huyện H cấp giấy chứng nhận kết hôn ngày 08/3/2010. Sau khi cưới vợ chồng tôi sống hòa thuận được một thời gian thì thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân là do tính tình không hợp nhau dẫn đến đôi lúc có cãi cọ. Vì vậy tình cảm vợ chồng dần không còn nên vợ chồng tôi sống ly thân từ tháng 12/2012 đến nay không ai quan tâm đến ai. Nay tôi nhận thấy tình cảm vợ chồng thực sự không còn, không thể kéo dài cuộc sống vợ chồng thêm được nữa nên tôi đề nghị Tòa án giải quyết cho tôi được ly hôn với cô Lê Thị Nh.

Về con: Vợ chồng tôi có một con chung là cháu Trương Khắc T, sinh ngày 27/9/2010, hiện đang ở với tôi. Tôi đề nghị được trực tiếp nuôi cháu Trương Khắc T và không yêu cầu cô Nh cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản và công nợ: Tôi không yêu cầu giải quyết.

Tại lời trình bày ngày 07/01/2019 của bố chị Lê Thị Nh là ông Lê Trung Đ thể hiện: Con tôi là Lê Thị Nh tự nguyện kết hôn với anh Trương Quốc Qu, được Ủy ban nhân dân xã Ng cấp giấy chứng nhận kết hôn năm 2010. Vợ chồng anh chị chung sống một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn. Từ năm 2012 đến nay anh Qu chị Nh đã sống ly thân. Việc anh Qu xin ly hôn, chị Nh cũng biết và báo với tôi là cũng thống nhất ly hôn.

Về con: Nh và Qu có 01 con chung là cháu Trương Khắc T, sinh ngày 27/9/2010, hiện đang ở với anh Qu. Nh cho tôi biết là thống nhất tạm thời giao cháu Trương Khắc T cho anh Qu nuôi, khi nào thấy cần thiết thì thay đổi nuôi con sau, hiện tại chị Nh chưa cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản: Nh không có yêu cầu gì về tài sản.

Tại lời trình bày ngày 04/01/2019 của cháu Trương Khắc T thể hiện: bố mẹ cháu ly hôn, cháu xin được ở với bố Qu.

Quá trình giải quyết vụ án, chị Lê Thị Nh không có mặt tại Tòa án để làm việc dù đã được triệu tập hợp lệ nhiều lần, Tòa án đã trực tiếp đến nhà chị Nh nhưng chị đi làm không có nhà nên đã giao các giấy triệu tập và các văn bản tố tụng của Tòa án cho bố đẻ chị Nh là ông Lê Trung Đ và ông cam đoan giao hoặc thông báo nội dung văn bản cho chị Nh. Ngày 28/01/2019, Tòa án đã tiến hành xác minh và ông Lê Trung Đcho biết ông đã giao hoặc thông báo toàn bộ nội dung các văn bản Tòa án giao cho chị Nh.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện H trình bày nhận xét về trình tự thủ tục tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án: Cơ quan tiến hành tố tụng và các đương sự tuân thủ đúng trình tự thủ tục tố tụng theo quy định của pháp luật.

Quan điểm về việc giải quyết vụ án: Tình trạng hôn nhân của anh Trương Quốc Qu và chị Lê Thị Nh đã thực sự trầm trọng, anh Qu đề nghị ly hôn, chị Nh biết và đã trao đổi với bố mình là ông Lê Trung Đ là chị thống nhất ly hôn và đồng ý để anh Qu trực tiếp nuôi con, vì vậy đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết chấp nhận đề nghị xin ly hôn của anh Qu. Về con: Vợ chồng anh chị có 01 con chung là cháu Trương Khắc T, sinh ngày 27/9/2010, lâu nay đang ở với anh Qu ổn định và khỏe mạnh, chị Nh cũng trao đổi với bố là ông Lê Trung Đ là chị đồng ý để anh Qu trực tiếp nuôi con nên đề nghị chấp nhận nguyện vọng xin được trực tiếp nuôi con của anh Qu. Về cấp dưỡng: anh Qu không yêu cầu nên đề nghị không xem xét. Về tài sản và công nợ: các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên đề nghị không xem xét.

Tại phiên tòa nguyên đơn anh Trương Quốc Qu không có sự thay đổi, bổ sung, rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện, các bên đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về hôn nhân: Anh Trương Quốc Qu và chị Lê Thị Nh tự nguyện kết hôn với nhau, được Ủy ban nhân dân xã Ng, huyện H, Thanh Hóa cấp giấy chứng nhận kết hôn ngày 08/3/2010 theo đúng quy định tại Điều 8, Điều 9 Luật hôn nhân gia đình, là hôn nhân hợp pháp.

Vợ chồng anh chị sống với nhau được một thời gian thì xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân do tính tình không hợp, bất đồng quan điểm sống. Anh chị sống ly thân từ tháng 12/2012 cho đến nay không quan tâm đến nhau, chị Lê Thị Nh biết việc anh Qu đề nghị ly hôn tại Tòa án, chị cũng trao đổi với bố đẻ của mình là thống nhất ly hôn, chị không đến Tòa án để làm việc thể hiện chị cũng không thiết tha đối với việc hòa giải hàn gắn gia đình. Như vậy tình trạng hôn nhân của anh chị đã thực sự trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, vì vậy áp dụng Điều 51, 56 Luật hôn nhân gia đình, chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của anh Trương Quốc Qu là phù hợp với tình trạng hôn nhân hiện nay của anh chị.

[2] Về con: Vợ chồng anh Trương Quốc Qu và chị Lê Thị Nh có một con chung là cháu Trương Khắc T, sinh ngày 27/9/2010. Anh Qu đề nghị được trực tiếp nuôi con, chị Nh cũng đưa ra ý kiến qua bố của chị là chị thống nhất để anh Qu trực tiếp nuôi con, nguyện vọng của cháu T cũng mong muốn được ở với bố. Hội đồng xét xử nhận thấy lâu nay cháu Trương Khắc T đang ở ổn định khỏe mạnh với anh Qu nên cần tiếp tục giao cháu Trương Khắc T cho anh Qu trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp.

Về cấp dưỡng nuôi con: anh Trương Quốc Qu không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3] Về tài sản: Không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[4] Về tố tụng: Ngày 07/01/2019, Tòa án đã tiến hành xác minh nguyên nhân tình trạng tranh chấp mâu thuẫn theo quy định tại khoản 3 Điều 208 Bộ luật tố tụng dân sự, lãnh đạo địa phương xã Ng xác nhận: anh Trương Quốc Qu và chị Lê Thị Nh đã làm thủ tục đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Ng năm 2010. Sau khi kết hôn được một thời gian đến cuối năm 2012, chị Nh một mình trở về địa phương xã Ng sinh sống. Từ đó đến nay chị Nh và anh Qu sống ly thân, mỗi người một nơi. Nay anh Qu xin ly hôn với chị Nh, đề nghị Tòa án giải quyết theo pháp luật.

Quá trình Tòa án giải quyết vụ án, anh Trương Quốc Qu có đơn đề nghị không hòa giải nên căn cứ Điều 207 Bộ luật tố tụng dân sự không tiến hành hòa giải đối với anh chị. Đối với chị Lê Thị Nh dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần, đã giao toàn bộ giấy triệu tập và văn bản tố tụng của Tòa án cho bố chị là ông Lê Trung Đ và ông xác nhận đã giao hoặc thông báo nội dung cho chị nhưng chị đều không có mặt tại Tòa án thể hiện chị có thái độ bỏ mặc tình trạng hôn nhân của mình, không mong muốn hòa giải để đoàn tụ. Tại phiên tòa ngày 28/01/2019, chị Lê Thị Nh vắng mặt không có lý do dù đã được triệu tập hợp lệ nên Hội đồng xét xử đã hoãn phiên tòa theo quy định tại khoản 1 Điều 227, Điều 233 và 235 của Bộ luật tố tụng dân sự. Tại phiên tòa hôm nay, chị Lê Thị Nh vắng mặt không có lý do nên căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiếp tục đưa vụ án ra xét xử vắng mặt chị Nh là đúng quy định của pháp luật.

Về án phí: Nguyên đơn anh Trương Quốc Qu phải chịu toàn bộ án phí dân sự trong vụ án ly hôn.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 51, 56, 81, 82, 83 của Luật hôn nhân và gia đình;

Căn cứ khoản 4 Điều 147, Điều 271, điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Căn cứ Điều 24; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Xử:

Về hôn nhân: Anh Trương Quốc Qu được ly hôn với chị Lê Thị Nh.

Về con: Công nhận cháu cháu Trương Khắc T, sinh ngày 27/9/2010 là con chung của anh Trương Quốc Qu và chị Lê Thị Nh. Giao cháu Trương Khắc T cho anh Trương Quốc Qu trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Chị Lê Thị Nhg có quyền qua lại thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung, không ai được cản trở.

Về án phí: Nguyên đơn anh Trương Quốc Qu phải chịu 300.000 đồng tiền án phí ly hôn sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí anh đã nộp là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AA/2017/0004484 ngày 27 tháng 12 năm 2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện H. Anh Qu đã nộp đủ.

Nguyên đơn anh Trương Quốc Qu được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Bị đơn chị Lê Thị Nh có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

187
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 18/2019/HNGĐ-ST ngày 29/01/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:18/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hoằng Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về