TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ AN KHÊ, TỈNH GIA LAI
BẢN ÁN 18/2019/HNGĐ-ST NGÀY 28/08/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON CHUNG
Ngày 28/8/2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã An Khê, tỉnh Gia Lai xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 110/2019/TLST-HNGĐ ngày 25/6/2019 về việc “Tranh chấp về ly hôn, nuôi con chung”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 21/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 12/8/2019 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Bùi Phạm Bạch V, sinh năm 1991; địa chỉ: Tổ B, phường AT, thị xã AK, tỉnh Gia Lai. Có mặt.
2. Bị đơn: Anh Phạm Văn Đ, sinh năm 1989; địa chỉ: Tổ B, phường AT, thị xã AK, tỉnh Gia Lai. Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Theo đơn khởi kiện và lời khai trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, nguyên đơn chị Bùi Phạm Bạch V trình bày: Chị V và anh Phạm Văn Đ tự nguyện kết hôn, có đăng ký kết hôn số 26/2018 ngày 30/8/2018 tại UBND phường AT, thị xã AK, tỉnh Gia Lai. Trong quá trình chung sống, vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn do không hợp tính nhau, khác nhau về quan điểm sống, anh Đ thường xuyên đánh đập và không tôn trọng chị V nên cuộc sống vợ chồng không có hạnh phúc. Hiện nay, vợ chồng đã sống ly thân, tình cảm không còn nữa nên không thể kéo dài cuộc sống hôn nhân. Do vậy, chị V yêu cầu Tòa án giải quyết xin được ly hôn với anh Phạm Văn Đ.
- Về con chung: Chị V và anh Đ có một con chung là Phạm Hoàng Thủy T, sinh ngày 26/9/2018. Chị V có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng cháu T và yêu cầu anh Đ phải cấp dưỡng nuôi con với mức 2.000.000đ/tháng cho đến khi cháu T thành niên.
- Về tài sản chung và nợ chung: Chị V không yêu cầu Tòa án giải quyết.
* Bị đơn anh Phạm Văn Đ trình bày: Anh Đ và chị Bùi Phạm Bạch V kết hôn với nhau đúng như chị V trình bày. Trong quá trình chung sống, vợ chồng có xảy ra cãi vã, xích mích, do nóng nảy nên anh có đánh chị V, nhưng không đến mức phải ly hôn, anh vẫn còn tình cảm với chị V và mong muốn vợ chồng đoàn tụ. Vì vậy, anh không đồng ý ly hôn với chị V.
- Về con chung: Anh Đ và chị V có một con chung là Phạm Hoàng Thủy T, sinh ngày 26/9/2018. Nếu ly hôn, anh Đ có nguyện vọng được nuôi con. Nếu giao cho chị V nuôi con thì anh Đ không cấp dưỡng nuôi con.
- Về tài sản chung và nợ chung: Anh Đ không yêu cầu Tòa án giải quyết.
* Ý kiến của chị V: Chị V yêu cầu được trực tiếp nuôi con và không yêu cầu anh Đ phải cấp dưỡng nuôi con.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng: Nguyên đơn chị Bùi Phạm Bạch V yêu cầu ly hôn với anh Phạm Văn Đ, sinh năm 1989; địa chỉ: Tổ B, phường AT, thị xã AK, tỉnh Gia Lai. Theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự, thì đây là vụ án tranh chấp về ly hôn, thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã AK, tỉnh Gia Lai.
[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Bùi Phạm Bạch V và anh Phạm Văn Đ có đủ điều kiện kết hôn, đã đăng ký kết hôn theo đúng quy định của pháp luật nên là hôn nhân hợp pháp. Trong quá trình chung sống chị V và anh Đ đã phát sinh mâu thuẫn dẫn đến chị V có đơn yêu cầu Tòa án giải quyết xin ly hôn với anh Đ. Tổ dân phố B và UBND phường AT đã có xác nhận về tình trạng mâu thuẫn của chị V và anh Đ. Tòa án đã nhiều lần tổ chức hòa giải để chị V và anh Đ có cơ hội hàn gắn với nhau nhưng chị V cương quyết ly hôn. Tại phiên tòa, cả hai đều không cố gắng gỡ bỏ mâu thuẫn để tiếp tục chung sống với nhau. Hội đồng xét xử đã phân tích động viên để vợ chồng đoàn tụ, nhưng chị V cho rằng không thể tiếp tục chung sống với nhau và cương quyết ly hôn. Hội đồng xét xử xét thấy tình trạng hôn nhân giữa chị V và anh Đ là trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Bùi Phạm Bạch V đối với anh Phạm Văn Đ.
[3] Về nuôi con chung: Chị V và anh Đ có một con chung là Phạm Hoàng Thủy T, sinh ngày 26/9/2018, chị V có nguyện vọng trực tiếp nuôi dưỡng cháu T. Hội đồng xét xử xét thấy vì lợi ích của con chung, hiện nay cháu T còn nhỏ, dưới 36 tháng tuổi nên cần có sự chăm sóc, nuôi dưỡng của người mẹ. Vì vậy, cần giao cháu Phạm Hoàng Thủy T, sinh ngày 26/9/2018 cho chị Bùi Phạm Bạch V được trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp, đúng theo quy định tại khoản 3 Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình. Chị V không yêu cầu anh Đ phải cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xét.
[4] Về tài sản chung và nợ chung: Chị V và anh Đ không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[5] Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Nguyên đơn chị Bùi Phạm Bạch V phải chịu án phí dân sự sơ thẩm, bị đơn anh Phạm Văn Đ không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; các Điều 147, 266 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 56, các Điều 57, 81, 82, 83, 84 của Luật Hôn nhân và gia đình; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
2. Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Bùi Phạm Bạch V.
- Về hôn nhân: Chị Bùi Phạm Bạch V được ly hôn với anh Phạm Văn Đ.
- Về nuôi con chung: Giao cho chị Bùi Phạm Bạch V được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu Phạm Hoàng Thủy T, sinh ngày 26/9/2018, khi cháu T chưa thành niên hoặc đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình. Chị V không yêu cầu anh Đ phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.
Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Nếu người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.
Trên cơ sở lợi ích của con, các đương sự có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc mức cấp dưỡng nuôi con.
- Về án phí: Chị Bùi Phạm Bạch V phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng), được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đ, theo biên lai thu tiền số 0007364 ngày 25/6/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã AK, tỉnh Gia Lai, chị V đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm. Anh Phạm Văn Đ không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.
3. Trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án (28/8/2019), các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo bản án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai xét xử phúc thẩm.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 18/2019/HNGĐ-ST ngày 28/08/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung
Số hiệu: | 18/2019/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thị Xã An Khê - Gia Lai |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 28/08/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về