Bản án 18/2019/HNGĐ-ST ngày 24/06/2019 về xin ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐẮK MIL, TỈNH ĐẮK NÔNG

BẢN ÁN 18/2019/HNGĐ-ST NGÀY 24/06/2019 VỀ XIN LY HÔN

Ngày 24 tháng 6 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân gia đình thụ lý số: 65/2019/TLST-HNGĐ ngày 26 tháng 3 năm 2019 về việc Xin ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 20/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 20 tháng 5 năm 2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Trần Công T, sinh năm 1989, có đơn xin xét xử vắng mặt.

- Bị đơn: Chị Âu Thị Vân A, sinh năm 1989, vắng mặt. Cùng trú tại: Thôn Đ, xã Đ, huyện M, tỉnh Đắk Nông

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo nội dung đơn khởi kiện ngày 25/3/2019, lời khai của anh Trần Công T trong quá trình tố tụng và tại phiên tòa:

Về hôn nhân: Anh T và chị Âu Thị Vân A kết hôn với nhau vào ngày 19/8/2008, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Đ, huyện M, tỉnh Đắk Nông, hôn nhân hoàn toàn tự nguyện không bị ép buộc. Trong quá trình sống chung, anh T cho rằng cuộc sống thường xuyên bất đồng quan điểm sống, hay cải nhau, chị Âu Thị Vân A không chung thủy vợ chồng nên chị Âu Thị Vân A đã tự ý bỏ đi, hiện nay hai vợ chồng anh chị đã sống ly thân nhau. Vì thấy hết tình cảm với nhau nên anh T yêu cầu Tòa án giải quyết cho anh T được ly hôn với chị Âu Thị Vân A.

Về con chung: Anh T và chị Âu Thị Vân A đã có 02 con chung gồm: Trần Bảo N, sinh ngày 03/4/2009 và Trần Công C, sinh ngày 19/02/2013. Hiện nay các con chung đều sống chung với anh T nên anh T có nguyện vọng nuôi con chung. Không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và công nợ: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Đối với chị Âu Thị Vân A, trong quá trình giải quyết vụ án, tất cả các văn bản của Tòa án đều được tống đạt hợp lệ cho chị Âu Thị Vân A, nhưng chị Âu Thị Vân A không đến Tòa án làm việc. Nên Tòa án nhân dân huyện Đắk Mil đã phối hợp với chính quyền địa phương lập biên bản về việc không tống đạt được văn bản của Tòa án và niêm yết theo quy định của pháp luật để làm căn cứ cho việc giải quyết vụ án.

- Kết quả thu thập chứng cứ:

Tại biên bản xác minh ngày 26/3/2019 của Tòa án nhân dân huyện Đắk Mil tại Công an xã Đ: Chị Âu Thị Vân A có đăng ký HKTT tại Thôn Đ, xã Đ, huyện M, tỉnh Đắk Nông và hiện nay chị Âu Thị Vân A không có mặt tại địa phương.

Tại biên bản xác minh ngày 08/5/2019 của Tòa án nhân dân huyện Đắk Mil tại địa phương xã Đ: Chị Âu Thị Vân A và anh T sau khi kết hôn thì sinh sống tại Thôn Đ, xã Đ, huyện M, tỉnh Đắk Nông. Khi có mâu thuẫn, anh T và chị Âu Thị Vân A không báo với chính quyền địa phương để hòa giải. Tuy nhiên, địa phương có nghe thông tin từ gia đình anh T cung cấp là chị Âu Thị Vân A có quan hệ bất chính với một người đàn ông khác.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk Mil tham gia phiên toà xác định việc tuân thủ theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án của những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng ở giai đoạn sơ thẩm nguyên đơn đã tuân thủ trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật đối với bị đơn không hợp tác, không chấp hành đúng theo quy định của pháp luật và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận đơn khởi kiện của anh Trần Công T. Anh Trần Công T được ly hôn với chị Âu Thị Vân A.

- Về con chung: Giao cháu Trần Bảo N, sinh ngày 03/4/2009 và Trần Công C, sinh ngày 19/02/2013 cho anh T được quyền trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi, trưởng thành. Chị Âu Thị Vân A được quyền đi lại, thăm nom, chăm sóc con chung, anh T không được cản trở hoặc gây trở ngại đến việc thăm nom, giáo dục con chung.

- Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu nên không đề cập giải quyết.

- Về án phí: Anh Trần Công T nộp 300.000 đồng tiền án phí hôn nhân gia đình sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

[1.1] Đây là vụ án xin ly hôn, bị đơn là chị Âu Thị Vân A có địa chỉ tại Thôn Đ, xã Đ, huyện M, tỉnh Đắk Nông. Nên Tòa án nhân dân huyện Đắk Mil thụ lý là đúng quy định tại Điều 28; khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[1.2] Bị đơn chị Âu Thị Vân A, trong quá trình giải quyết vụ án chị Âu Thị Vân A vắng mặt nên Tòa án đã tiến hành mở phiên họp về kiểm tra, giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ nhưng không tiến hành hòa giải được; ngày 15/5/2019 Tòa án nhân dân huyện Đắk Mil đã thông báo cho chị Âu Thị Vân A biết toàn bộ nội dung kết quả mở phiên họp giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ là đúng theo quy định tại khoản 3 Điều 210 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[1.3] Sau khi Tòa án đưa vụ án ra xét xử, mặc dù đã hai lần được Tòa án nhân dân huyện Đắk Mil triệu tập tham gia phiên tòa nhưng chị Âu Thị Vân A vắng mặt không có lý do gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án. Mặt khác sự vắng mặt của chị Âu Thị Vân A đã không cung cấp được cho Tòa án chứng cứ chứng minh để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình và phản bác lại đối với yêu cầu của nguyên đơn. Vì vậy, theo quy định tại khoản 4 Điều 91 và điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự, chị Âu Thị Vân A phải chịu hậu quả của việc không đưa ra được chứng cứ chứng minh để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình và Tòa án nhân dân huyện Đắk Mil tiến hành mở phiên tòa để xét xử vụ án vắng mặt bị đơn là chị Âu Thị Vân A là phù hợp.

[2] Xét yêu cầu của nguyên đơn anh Trần Công T:

[2.1] Về hôn nhân: Anh Trần Công T và chị Âu Thị Vân A có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã Đ, huyện M, tỉnh Đắk Nông theo giấy chứng nhận kết hôn số 73/2018, ngày 19/8/2018. Hôn nhân hoàn toàn tự nguyện, không ai ép buộc, quá trình chung sống hai bên xảy ra nhiều mâu thuẩn dẫn đến tình cảm vợ chồng không còn và đã ly thân với nhau một thời gian khá dài nên không còn khả năng đoàn tụ. Trong quá trình lấy lời khai tại Tòa án, anh T cũng thừa nhận, vợ chồng anh chị không còn tình cảm với nhau, không muốn tiếp tục chung sống với nhau nữa và muốn được ly hôn để ổn định cuộc sống vì hôn nhân vợ chồng không đạt được mục đích.

Hội đồng xét xử xét thấy, mâu thuẫn phát sinh từ lâu nhưng cả hai không tìm ra được giải pháp khắc phục. Anh chị đã không còn tin tưởng, quan tâm chăm sóc lẫn nhau, cuộc sống chung không còn hạnh phúc, không có khả năng đoàn tụ, hôn nhân của anh chị thật sự không đạt được mục đích. Do vậy, Hội đồng xét xử nghĩ cần căn cứ vào Điều 51; Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 chấp nhận đơn xin ly hôn của anh T và giải quyết cho anh T được ly hôn với chị Âu Thị Vân A.

[2.2] Về con chung: Hiện nay cháu Trần Bảo N, sinh ngày 03/4/2009 và Trần Công C, sinh ngày 19/02/2013 đang sống chung với anh T. Trong quá trình giải quyết vụ án, anh T có nguyện vọng nuôi con chung cho đến khi các cháu đủ tuổi trưởng thành.

Theo quy định tại khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 “Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì thì Tòa án quyết định giao con cho một bên căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con”. Hiện nay, cháu Trần Bảo N đã trên 07 tuổi. Trong quá trình tố tụng, cháu Nam có nguyện vọng được ở với bố là anh Trần Công T.

Để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các cháu. Hội đồng xét xử, xét thấy cần giao các cháu Trần Bảo N, sinh ngày 03/4/2009 và Trần Công C, sinh ngày 19/02/2013 cho anh T trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng, cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi trưởng thành là phù hợp

- Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[3] Về án phí: Anh Trần Công T phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Xét quan điểm đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk Mil tại phiên toà là có căn cứ, Hội đồng xét xử cần chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điều 39; Điều 144; Điều 147; khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự;

Áp dụng Điều 51; Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận đơn khởi kiện của anh Trần Công T. Anh Trần Công T được ly hôn với chị Âu Thị Vân A.

2. Về con chung: Giao cháu Trần Bảo N, sinh ngày 03/4/2009 và Trần Công C, sinh ngày 19/02/2013 cho anh Trần Công T được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục, đến khi các cháu đủ 18 tuổi trưởng thành. Chị Âu Thị Vân A được quyền đi lại, thăm nom, chăm sóc con chung, Anh Trần Công T không được cản trở hoặc gây trở ngại đến việc thăm nom, giáo dục con chung.

Việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn; Nghĩa vụ, quyền của cha, mẹ không trực tiếp nuôi con sau ly hôn; Nghĩa vụ, quyền của cha mẹ trực tiếp nuôi con đối với người không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn được thực hiện theo quy định tại các Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật HNGĐ năm 2014.

3. Về cấp dưỡng nuôi con chung: Không yêu cầu.

Vì lợi ích của con chung theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con sau ly hôn; yêu cầu cấp dưỡng, thay đổi mức cấp dưỡng, chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng hoặc thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng theo quy định các Điều 84; Điều 110; Điều 117; Điều 118 và Điều 119 Luật HNGĐ năm 2014.

4. Về án phí dân sự sơ thẩm: Anh Trần Công T phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí sơ thẩm, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0003452 ngày 26/3/2019 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện M, tỉnh Đắk Nông.

5. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn; bị đơn vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày tròn kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

212
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 18/2019/HNGĐ-ST ngày 24/06/2019 về xin ly hôn

Số hiệu:18/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đắk Mil - Đăk Nông
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 24/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về