Bản án 18/2019/HNGĐ-ST ngày 24/05/2019 về tranh chấp không công nhận quan hệ vợ chồng

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN NGÔ QUYỀN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 18/2019/HNGĐ-ST NGÀY 24/05/2019 VỀ TRANH CHẤP KHÔNG CÔNG NHẬN QUAN HỆ VỢ CHỒNG

Ngày 24 tháng 5 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 528/2018/TLST-HNGĐ ngày 25 tháng 12 năm 2018 về việc không công nhận quan hệ vợ chồng theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 231/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 19 tháng 4 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 274/2019/QĐST-HNGĐ ngày 07 tháng 5 năm 2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Đặng Hồng V; nơi cư trú: đường N, phường Đ, quận N, thành phố H; có mặt.

- Bị đơn: Bà Lê Thị M; nơi cư trú: đường A, phường Đ, quận N, thành phố H; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết vụ dân sự không công nhận quan hệ vợ chồng và bản tự khai, nguyên đơn ông Đặng Hồng V trình bày:

Tháng 3 năm 1987, ông Đặng Hồng V và bà Lê Thị M kết hôn trên cơ sở tự nguyện, được sự đồng ý của hai bên gia đình, đám cưới tổ chức theo phong tục Việt Nam. Do không hiểu biết về pháp luật nên ông bà không đăng ký kết hôn. Sau khi kết hôn ông bà sống hạnh phúc đến năm 1998 thì phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân do tính cách không hợp, bất đồng quan điểm dẫn đến việc vợ chồng thường xuyên xô sát cãi nhau. Hai bên gia đình đã khuyên can nhiều lần nhưng không có kết quả mà mâu thuẫn ngày càng trở lên trầm trọng. Ông bà sống ly thân từ năm 1999 đến nay, không quan tâm đến tình cảm và kinh tế của nhau. Nay ông xác định tình cảm vợ chồng không còn, sống chung không hạnh phúc đề nghị Toà án giải quyết không công nhận quan hệ vợ chồng giữa ông với bà M.

- Về con chung: Ông Đặng Hồng V và bà Lê Thị M có hai con chung là Đặng Thương T, sinh ngày 07/4/1988 và Đặng Vân A, sinh ngày 22/7/1998. Các con đều đã trưởng thành, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về tài sản chung: Ông Đặng Hồng V và bà Lê Thị M không có tài sản chung, không yêu cầu Toà án giải quyết.

Bị đơn bà Lê Thị M vắng mặt tại phiên tòa và cũng không có bản tự khai thể hiện quan điểm của mình về việc giải quyết vụ án. Trong suốt quá trình thụ lý giải quyết vụ án, Tòa án đã nhiều lần triệu tập bị đơn là bà Lê Thị M cũng như tống đạt các văn bản của Tòa án: Thông báo thụ lý vụ án và thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải cho bà M nhưng tại các phiên họp tiếp cận, công khai chứng cứ và hoà giải bà M đều vắng mặt không có lý do nên Tòa án không tiến hành hòa giải được.

Tại phiên toà, ông Đặng Hồng V giữ nguyên yêu cầu đề nghị Tòa án không công nhận quan hệ vợ chồng giữa ông và bà Lê Thị M.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng phát biểu quan điểm về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự; nguyên đơn đã thực hiện đúng; bị đơn chưa thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ, tham gia phiên tòa theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự và đề nghị Hội đồng xét xử, xử: Về quan hệ hôn nhân: Không công nhận quan hệ vợ chồng giữa ông Đặng Hồng V và bà Lê Thị M. Về việc nuôi con: Ông Đặng Hồng V và bà Lê Thị M có hai con chung là Đặng Thương T, sinh ngày 07/4/1988 và Đặng Vân A, sinh ngày 22/7/1998 đều đã trưởng thành, không yêu cầu giải quyết nên không đặt vấn đề giải quyết. Về việc chia tài sản: Ông V không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt vấn đề giải quyết. Về án phí: Ông V là người cao tuổi, theo quy định tại Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, ông V được miễn án phí dân sự sơ thẩm nên cần trả lại cho ông V số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm 300.000 đồng đã nộp.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên toà và căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

- Về tố tụng dân sự:

[1] Đây là vụ án tranh chấp về không công nhận quan hệ vợ chồng được quy định tại khoản 8 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự, bị đơn bà Lê Thị M cư trú trên địa bàn quận Ngô Quyền nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Ngô Quyền theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Ngày 19 tháng 4 năm 2019, Tòa án đã ra Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 231/2019/QĐXXST-HNGĐ và đã tống đạt hợp lệ quyết định trên cho bà M nhưng tại phiên toà ngày 07/5/2019 bà M vắng mặt lần thứ nhất, không có lý do. Hội đồng xét xử đã ra Quyết định hoãn phiên toà số 274/2019/QĐST-HNGĐ trong đó ấn định phiên tòa được mở lại vào hồi 08 giờ 00 phút ngày 24/5/2019. Tòa án đã tống đạt hợp lệ Quyết định hoãn phiên tòa cho bà M. Tại phiên tòa hôm nay, bị đơn bà Lê Thị M tiếp tục vắng mặt lần thứ hai, không có lý do. Vì vậy, Tòa án xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về nội dung:

+ Về quan hệ hôn nhân:

[3] Ông Đặng Hồng V và bà Lê Thị M lấy nhau từ tháng 3 năm 1987 trên cơ sở tự nguyện, có cưới hỏi theo phong tục Việt Nam nhưng do không hiểu biết pháp luật nên không đăng ký kết hôn. Từ khi lấy nhau cho đến nay ông bà cũng không đi đăng ký kết hôn như vậy ông bà đã vi phạm khoản 1 Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình về đăng ký kết hôn.

[4] Qua xác minh, thu thập chứng cứ thể hiện sau khi kết hôn ông bà sống hạnh phúc đến năm 1998 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do tính cách không hợp, bất đồng quan điểm dẫn đến việc vợ chồng thường xuyên xô sát cãi nhau. Hai bên gia đình đã khuyên ngăn, hòa giải nhưng không có kết quả mà mâu thuẫn ngày càng trở lên trầm trọng. Ông bà sống ly thân từ năm 1999 đến nay, không quan tâm đến tình cảm và kinh tế của nhau. Đến nay xác định tình cảm vợ chồng không còn, ông V đề nghị Tòa án giải quyết không công nhận quan hệ vợ chồng giữa ông với bà M. Quan điểm của gia đình, địa phương đều xác định tình cảm vợ chồng không còn, không thể đoàn tụ được đề nghị Toà án giải quyết không công nhận ông V và bà M là vợ chồng. Xét mâu thuẫn giữa ông V và bà M đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vậy cần áp dụng khoản 1 Điều 9, khoản 1 Điều 14, khoản 2 Điều 53 Luật Hôn nhân và gia đình, chấp nhận yêu cầu của ông V: Không công nhận ông Đặng Hồng V và bà Lê Thị M là vợ chồng.

+ Về việc nuôi con:

[5] Ông Đặng Hồng V và bà Lê Thị M có hai con chung là Đặng Thương T, sinh ngày 07/4/1988 và Đặng Vân A, sinh ngày 22/7/1998 đều đã trưởng thành, không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt vấn đề giải quyết.

+ Về việc chia tài sản:

[6] Ông Đặng Hồng V không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt vấn đề giải quyết.

- Về án phí:

[7] Ông Đặng Hồng V sinh năm 1958 là người cao tuổi, theo quy định tại Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, ông V được miễn án phí dân sự sơ thẩm nên cần trả lại cho ông V số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm 300.000 đồng đã nộp.

- Về quyền kháng cáo:

[8] Các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 8 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ khoản 1 Điều 9, khoản 1 Điều 14, khoản 2 Điều 53 Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ vào điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Xử:

- Về quan hệ hôn nhân: Không công nhận ông Đặng Hồng V và bà Lê Thị M là vợ chồng.

- Về việc nuôi con: Ông Đặng Hồng V và bà Lê Thị M có hai con chung là Đặng Thương T, sinh ngày 07/4/1988 và Đặng Vân A, sinh ngày 22/7/1998 đều đã trưởng thành, không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt vấn đề giải quyết.

- Về việc chia tài sản: Ông Đặng Hồng V không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt vấn đề giải quyết.

- Về án phí: Miễn cho ông Đặng Hồng V án phí dân sự sơ thẩm. Trả lại cho ông Đặng Hồng V số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm 300.000 đồng đã nộp theo biên lai số 3095 ngày 25 tháng 12 năm 2018 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng

- Quyền kháng cáo đối với bản án: Ông Đặng Hồng V được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Bà Lê Thị M được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày niêm yết bản án theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

391
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 18/2019/HNGĐ-ST ngày 24/05/2019 về tranh chấp không công nhận quan hệ vợ chồng

Số hiệu:18/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Ngô Quyền - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 24/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về