Bản án 18/2019/HNGĐST ngày 22/03/2019 về xin ly hôn và tranh chấp con chung

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NÚI THÀNH, TỈNH QUẢNG NAM

BẢN ÁN 18/2019/HNGĐST NGÀY 22/03/2019 VỀ XIN LY HÔN VÀ TRANH CHẤP CON CHUNG

Ngày 22 tháng 3 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Núi Thành, tỉnhQuảng Nam xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 315/2018/TLST-HNGĐ ngày 04/12/2018 về “Tranh chấp ly hôn và con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 01/2019/QĐXXST- HNGĐ ngày 13/02/2018, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Thanh H, sinh năm: 1989; trú tại: Khối phố Đ, phường T, thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam; Có mặt.

Bị đơn: Ông Võ Đăng L, sinh năm 1991; trú tại: Thôn T, xã S, huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam; Vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 19/10/2018 và quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà H trình bày:

Bà Nguyễn Thị Thanh H và ông Võ Đăng L tự nguyện tìm hiểu và đến với nhau thành vợ chồng có đăng ký kết hôn tại UBND phường Hòa Thuận, thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam vào ngày 01 tháng 10 năm 2012 số 53/2012 quyển số 01/2012. Vợ chồng bà H và ông L chung sống có 01 con chung tên là Võ Nguyễn Bảo , sinh ngày 06/5/2013.

Trong quá trình chung sống vợ chồng bà H và ông L thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân chủ yếu là do ông L không có trách nhiệm gia đình, không phụ giúp bà H nuôi con, thường xuyên cờ bạc rượu chè, vợ chồng không ai quan tâm đến ai. Tình trạng này đã kéo dài nhiều năm nay, không khắc phục được, cuộc sống hôn nhân không còn hạnh phúc. Mặc dù bà H đã cố gắng khuyên nhủ ông L nhưng ông L vẫn không thay đổi. Đến thời điểm hiện nay, bà H nhận thấy mâu thuẫn vợ chồng không thể hàn gắn, tình cảm vợ chồng không còn, cuộc sống chung không hạnh phúc; vợ chồng bà đã tự ly thân từ năm 2016 cho đến nay. Vì vậy, bà H yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà ly hôn với ông L.

Về con chung và cấp dưỡng nuôi con chung: Bà H và ông L có 01 con chung tên Võ Nguyễn Bảo T, sinh ngày 06/5/2013. Khi ly hôn, bà H yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được tiếp tục nuôi dưỡng cháu Võ Nguyễn Bảo T, sinh ngày 06/5/2013. Bà H không yêu cầu Tòa án giải quyết nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung, nợ chung và cho mượn nợ chung: Bà H xác định không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về phía bị đơn: Ông L trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành tống đạt hợp lệ và niêm yết công khai các văn bản tố tụng, giấy triệu tập ông L đến tham gia giải quyết vụ án nhưng ông L không đến. Trong các lần Tòa án mở phiên tòa xét xử để giải quyết vụ án, Toà án nhân dân huyện Núi Thành đã thực hiện thủ tục tống đạt, niêm yết Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa cho ông L nhưng ông L vẫn không đến tham gia phiên tòa. Tại phiên tòa hôm nay ông L vắng mặt không rõ lý do.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Núi Thành phát biểu quan điểm: Trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án,Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã tuân theo pháp luật tố tụng. Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định tại Điều 70, 71 của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn chưa thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định tại Điều 70, 72 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về nội dung vụ án: Nhận thấy, cuộc sống hôn nhân giữa bà H và ông L thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, quan điểm sống không phù hợp, cuộc sống chung không hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, yêu cầu của bà H có cơ sở chấp nhận. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà H; giao con chung Võ Nguyễn Bảo T, sinh ngày 06/5/2013 cho bà H nuôi dưỡng; bà H không yêu cầu Tòa án giải quyết nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung nên không đề cập xem xét giải quyết. Về tài sản chung và nợ chung: không đề cập xem xét giải quyết. Nguyên đơn chịu án phí hôn nhân gia đình theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa, ý kiến của đại diện viện kiểm sát nhân dân huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam tham gia tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: Bà H có đơn yêu cầu ly hôn với ông L, theo đơn khởi kiện, các tài liệu chứng cứ kèm theo đơn và tại kết quả xác minh của Công an xã Tam Sơn thì ông L có đăng ký thường trú tại thôn T, xã S, huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam. Do đó theo quy định tại khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam.

[2] Về thủ tục tố tụng: Ông L đã được Tòa án triệu tập hợp lệ để tham gia phiên tòa đến lần thứ 2 nhưng đều vắng mặt nên Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định tại khoản 1 và điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Bà H và ông L tự nguyện chung sống và có đăng ký kết hôn vào năm 2012 và được UBND phường Hòa Thuận, thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam cấp giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 01 tháng 10 năm 2012 số: 53/2012 quyển số 01/2012. Vậy, quan hệ hôn nhân giữa bà H và ông L là hợp pháp, được pháp luật thừa nhận và bảo vệ.

Trong quá trình chung sống do tính cách không hòa hợp nên vợ chồng xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân chính là do cả hai bất đồng quan điểm sống mà không thể giải quyết được, ông L không quan tâm đến gia đình, con cái, tình cảm của hai vợ chồng không còn, vợ chồng không quan tâm đến nhau. Bà H xin ly hôn với ông L vì mục đích của hôn nhân không đạt được, mâu thuẫn kéo dài không hàn gắn được; bà H và ông L đã tự ly thân từ năm 2016 cho đến thời điểm hiện nay.

Trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng, giấy triệu tập quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa nhưng ông L đều vắng mặt không có lý do, cũng không gửi văn bản trình bày ý kiến, nguyện vọng của mình. Do đó Hội đồng xét xử không có cơ sở để xem xét ý kiến của ông L.

Hội đồng xét xử nhận định: Tình trạng hôn nhân giữa bà H và ông L đã đến mức trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ vào Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử có căn cứ để chấp nhận yêu cầu của bà H.

[3] Về con chung và cấp dưỡng nuôi dưỡng con chung: Bà H và ông L có 01 con chung tên Võ Nguyễn Bảo T, sinh ngày 06/5/2013, bà H đề nghị giao cháu T cho bà H trực tiếp nuôi dưỡng. Hội đồng xét xử xét thấy: Cháu T hiện đang chung sống cùng bà H từ năm 2016 cho đến thời điểm hiện nay. Do đó, để đảm bảo quyền lợi mọi mặt cho cháu T không nên làm xáo trộn về tâm lý cũng như việc sinh hoạt và căn cứ vào khoản 3 điều 81 luật hôn nhân và gia đình, hội đồng xét xử nhận thấy cần thiết giao con chung Võ Nguyễn Bảo T, sinh ngày 06/5/2013 cho bà H trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp. Do bà H không yêu cầu giải quyết vấn đề cấp dưỡng nuôi con chung nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

Ông L có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Vì lợi ích của con, việc nuôi con và cấp dưỡng nuôi con có thể thay đổi.

[4] Về tài sản chung, nợ chung và cho mượn nợ chung: Bà H xác định không có nên Hội đồng xét xử không đề cập xem xét.

[5] Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà H phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 238, Điều 273, Điều 278, Điều 280 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ vào các Điều 51, 56, 57, 81, 82, 83, 84 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ vào Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về án phí và lệ phí Tòa án,

Tuyên xử:

Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu của bà H. Bà H được ly hôn với ông L.

Về nuôi con chung: Giao con chung Võ Nguyễn Bảo T, sinh ngày 06/5/2013 cho Bà H trực tiếp nuôi dưỡng. Ông L không có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung.

Ông L được quyền thăm nom và chăm sóc con chung, không ai được quyền cản trở ông L thực hiện quyền này. Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức theo quy định tại khoản 5 Điều 84 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung và cho mượn nợ chung: Không có.

Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Bà H phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí bà Hđã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0004011 ngày 04/12/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Núi Thành, tỉnhQuảng Nam.

Nguyên đơn có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa được quyên khang cao bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và Điều 9 của Luật thi hành án dân sự (sửa đổi, bổ sung năm 2014); thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự (sửa đổi bổ sung năm 2014).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

299
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 18/2019/HNGĐST ngày 22/03/2019 về xin ly hôn và tranh chấp con chung

Số hiệu:18/2019/HNGĐST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Núi Thành - Quảng Nam
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về