Bản án 18/2018/KDTM-ST ngày 17/07/2018 về tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 6, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 

BẢN ÁN 18/2018/KDTM-ST NGÀY 17/07/2016 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA

Trong ngày 17 tháng 7 năm 2018 tại Phòng xử án dân sự trụ sở Tòa án nhân dân Quận 6, thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án kinh doanh thương mại thụ lý số 29/2017/TLST-KDTM ngày 06/10/2017, về việc: “Tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng hóa” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 261/2018/QĐXXST- KDTM ngày 06 tháng 6 năm 2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số 137/2018/QĐST- KDTM ngày 26 tháng 6 năm 2018, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Công ty cổ phần K; Địa chỉ trụ sở: Thị trấn Đ, huyện Đ, Thành phố Hà Nội. Địa chỉ chi nhánh: đường S, Phường M, Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: bà L, sinh năm 1976 (Giấy ủy quyền ngày 09/8/2017) (có mặt).

Bị đơn: Bà Ng, sinh năm 1980 - Chủ Hộ kinh doanh A (vắng mặt); Địa chỉ: đường L, Phường MH, Quận S, Thành phố Hồ Chí Minh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện đề ngày 02/8/2017 của Công ty cổ phần K cùng lời khai của bà L đại diện theo ủy quyền của Công ty cổ phần K, trình bày như sau:

Công ty cổ phần K ủy quyền cho chi nhánh Công ty cổ phần K (TP Hà Nội) (nay là Chi nhánh tại TP.HCM Công ty cổ phần K) ký kết với Hộ kinh doanh A do bà Ng làm chủ hộ, Hợp đồng nguyên tắc bán hàng năm 2014 số 028/CNKVT- HDDTT2015 ngày  01/6/2014  và  Hợp  đồng  nguyên  tắc  bán  hàng  năm 2015 số 028/CNKVT-HDDTT2015 ngày 02/01/2015 thỏa thuận : Chủ Hộ kinh doanh A  mua của Công ty cổ phần K hàng hóa là sản phẩm do công ty sản xuất bao gồm các loại khóa, bản lề, clemon, thanh khóa; đơn giá theo từng thời điểm (có thông báo đến người mua), thanh toán làm 1 lần vào ngày 26 đến ngày 30 trong tháng bằng tiền mặt hoặc chuyển khoản.

Sau khi ký 02 hợp đồng nêu trên, Chủ Hộ kinh doanh A  mua và đã nhận hàng mua của Công ty cổ phần K hàng hóa bao gồm các loại khóa, bản lề, clemon, thanh khóa từ ngày 01/02/2015 đến ngày 30/4/2015 có ký biên bản giao nhận hàng và thanh toán như sau:

- Từ tháng 06 năm 2014 đến hết tháng 12 năm 2014 mua hàng với tổng giá trị 1.572.691.151 đồng, đã thanh toán số tiền 1.555.841.841 đồng, còn nợ lại 16.849.310 đồng. Hai  bên đã ký biên bản xác nhận công nợ số 29/TLHĐ-2014 ngày 02 tháng 01 năm 2015 (căn cứ vào hợp đồng tiêu thụ số 028/KVT ngày 01/06/2014).

- Giá trị hàng mua ngày 06/01/2015 là 24.021.551 đồng, ngày 07/01/2015 là 37.717.167 đồng, ngày 08/01/2015 là 4.061.182 đồng, ngày 10/01/2015 là 25.145.332 đồng, ngày 14/01/2015 là 10.029.609 đồng, ngày 15/01/2015 là 21.354.378 đồng, ngày 16/01/2015 là 5.181.602 đồng.

* Tổng giá trị hàng hóa mà Chủ Hộ kinh doanh A  đã mua từ ngày 06/01 đến 16/01/2015 là 127.510.821 đồng. Vào các ngày 21/01, 29/01 và 31/01 đã thanh toán 144.360.131 đồng (bao gồm tiền nợ còn lại của năm 2014 là 16.849.310 đồng).

- Giá trị mua hàng ngày 26/01/2015 là 1.176.396 đồng, ngày 29/01/2015 là 4.707.316 đồng, ngày 02/02/2015 là 4.320.676 đồng, ngày 07/02/2015 là 148.372.750 đồng.

* Tổng giá trị hàng hóa mà Chủ Hộ kinh doanh A  đã mua từ ngày 26/01 đến 07/02/2015 là 158.577.138 đồng. Vào các ngày 10/02 và 12/02/2015 đã thanh toán 158.470.949 đồng, còn nợ lại 106.189 đồng.

- Giá trị mua hàng ngày 13/02/2015 là 1.237.282 đồng. Đến hết tháng 02/2015 tổng số tiền còn nợ lại là 1.343.471 đồng.

- Giá trị mua hàng ngày 09/03/2015 là 61.382.227 đồng, ngày 11/03/2015 là 2.952.005 đồng, ngày 12/03/2015 là 29.221.193 đồng, ngày 16/03/2015 là 5.362.996 đồng.

+ Ngày 17/03/2015 thanh toán 37.000.000 đồng.

- Giá trị mua hàng ngày 18/03/2015 là 441.583 đồng, ngày 19/03/2015 là 10.502.395 đồng, ngày 20/03/2015 là 3.619.193 đồng, ngày 27/03/2015 là 2.913.308 đồng.

+ Vào các ngày 27/03 và 31/03/2018 đã thanh toán 74.673.000 đồng.

* Tổng giá trị hàng hóa mà Chủ Hộ kinh doanh A  đã mua từ ngày 09/03 đến 31/03/2015 là 116.394.900 đồng, đã thanh toán 111.673.000 đồng. Số tiền mua hàng trong tháng 03/2015 còn nợ tổng cộng 4.721.900 đồng.

- Giá trị mua hàng ngày 04/04/2015 là 12.417.329 đồng.

+ Ngày 06/04/2015 thanh toán 14.000.000 đồng.

-  Giá  trị  mua  hàng  ngày  06/04/2015  là  37.849.293  đồng, ngày 07/04 là 30.911.579 đồng, ngày 11/04 là 14.919.693 đồng, ngày 13/04 là 6.753.595, ngày 14/04 là 4.265.702.

+ Ngày 15/04/2015 thanh toán số tiền 30.000.000 đồng.

- Giá trị mua hàng ngày 17/04 là 11.719.994 đồng.

+ Ngày 27/04/2015 đã thanh toán số tiền 50.902.000 đồng.

* Tổng giá trị hàng hóa mà Chủ Hộ kinh doanh A  đã mua từ ngày 04/04 đến 17/04/2015 là 118.837.185 đồng, và đã thanh toán 94.902.000 đồng. Số tiền mua hàng trong tháng 04/2015 còn nợ tổng tổng cộng là 23.935.185 đồng.

Tổng số tiền Chủ Hộ kinh doanh A   còn nợ lại Công ty cổ phần K đến hết tháng 04/2015 là 30.000.556 đồng. Công ty cổ phần K đã nhiều lần tìm gặp bà Ng – Chủ Hộ kinh doanh A  yêu cầu trả nợ nêu trên, nhưng đến nay vẫn không thanh toán đầy đủ tiền mua hàng cho Công ty.

Nay Công ty cổ phần K yêu cầu Tòa án buộc bà Ng - Chủ Hộ kinh doanh A phải trả cho Công ty cổ phần K số tiền là 30.000.556đồng một lần ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.

- Bà Ng - Chủ Hộ kinh doanh A  không có ý kiến, không đến Tòa án nhân dân Quận 6 để làm bản tự khai, không tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, cũng như vắng mặt tại phiên tòa và không có văn bản nêu ý kiến.

Bà Nguyễn Thị Dịu Thùy – Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân Quận 6 phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án: Việc giải quyết vụ án kinh doanh thương mại nêu trên của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự là phù hợp với quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tài phiên tòa, cùng ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 6 tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về quan hệ tranh chấp, thẩm quyền giải quyết, thủ tục tố tụng:

Ngày 04/8/2017 Công ty cổ phần K đã nộp đơn khởi kiện đề ngày 02/8/2017 (có hình thức, nội dung ñuùng theo quy ñònh của pháp luật tố tụng dân sự) yêu cầu bà Ng - Chủ Hộ kinh doanh A  trả tiền mua hàng còn nợ theo hợp đồng bán hàng có ghi địa chỉ Chủ Hộ kinh doanh A  do bà Ng đại diện là đường L, Phường MH, Quận S. Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án nhân dân Quận 6 không tống đạt được thông báo về việc thụ lý vụ án, do bà Ng không còn cư trú tại địa chỉ mà Công ty cổ phần K cung cấp (theo kết quả xác minh của Công an Phường MH, Quận S). Tuy nhiên, căn cứ công văn số 166/KT ngày 23/3/2018 của Phòng kinh tế Quận 6 thì Chủ Hộ kinh doanh A  do bà Ng đại diện hộ có địa điểm kinh doanh tại đường L, Phường MH, Quận S hiện trong danh sách quản lý đăng ký kinh doanh. Vì vậy, căn cứ điểm a khoản 2 Điều 6 Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP ngày 05/5/2017, khoản 1 Điều 30, điểm b khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 40 của Bộ luật tố tụng dân sự, đây là tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng hóa thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân Quận 6 tiếp tục giải quyết vụ án theo thủ tục chung.

Tòa án nhân dân Quận 6, thành phố Hồ Chí Minh đã tiến hành thủ tục tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho bà Ng - Chủ Hộ kinh doanh A  theo đúng qui định của pháp luật Tố tụng dân sự, để triệu tập bà Ng - Chủ Hộ kinh doanh A  đến Tòa án nhân dân Quận 6 làm bản tự khai, tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, tham gia phiên tòa. Nhưng bà Ng - Chủ Hộ kinh doanh A  vẫn không đến tòa để làm bản tự khai, tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, tham gia phiên tòa. Xét việc bà Ng - Chủ Hộ kinh doanh A  là bị đơn đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không đến tham gia phiên tòa, nên Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt bị đơn là bà Ng - Chủ Hộ kinh doanh A .

[2]. Về yêu cầu của đương sự:

Tòa án nhân dân Quận 6 đã tống đạt hợp lệ cho bà Ng - Chủ Hộ kinh doanh A thông báo thụ lý số 1192/TB-TLVA ngày 09/10/2017 về việc thụ lý vụ án “Tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng hóa” theo đơn khởi kiện của Công ty cổ phần K yêu cầu bà Ng - Chủ Hộ kinh doanh A trả tiền mua hàng còn nợ. Phía bà Ng - Chủ Hộ kinh doanh A  không có văn bản ghi ý kiến, cũng như không đến Tòa án nhân dân Quận 6 theo giấy triệu tập để trình bày ý kiến, chứng tỏ bà Ng - Chủ Hộ kinh doanh A  đã “không phản đối những tình tiết, sự kiện, tài liệu …” mà bên Công ty cổ phần K đưa ra. Chính vì vậy, căn cứ khoản 2 Điều 92 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 Tòa án nhân dân Quận 6 công nhận những tình tiết, sự kiện và tài liệu do Công ty cổ phần K đưa ra có giá trị chứng minh.

Căn  cứ  Hợp  đồng  nguyên  tắc  bán  hàng  năm  2014  số  028/CNKVT- HDDTT2015 ngày  01/6/2014  và  Hợp  đồng  nguyên  tắc  bán  hàng  năm  2015 số 028/CNKVT-HDDTT2015 ngày 02/01/2015 và Quy chế chi nhánh của Công ty cổ phần K ngày 28/9/2013, cho thấy giao dịch giữa Công ty cổ phần K và Chủ Hộ kinh doanh A là “Hợp đồng mua bán hàng hóa” có đủ điều kiện theo quy định tại Điều 122 Bộ luật Dân sự và Điều 24 Luật Thương mại nên có hiệu lực thực hiện theo thỏa thuận:

Chủ Hộ kinh doanh A  mua của Công ty cổ phần K hàng hóa là sản phẩm do công ty sản xuất bao gồm các loại khóa, bản lề, clemon, thanh khóa; đơn giá theo từng thời điểm thể hiện trên bảng giá kèm theo, thanh toán làm 1 lần vào ngày 26 đến ngày 30 trong tháng bằng tiền mặt hoặc chuyển khoản.

Theo các biên bản giao nhận hàng có chữ ký của người nhận hàng ngày 06/01/2015, ngày 07/01/2015, ngày 08/01/2015, ngày 10/01/2015, ngày 14/01/2015, ngày  15/01/2015,  ngày  16/01/2015,  ngày  26/01/2015,  ngày  29/01/2015,  ngày 02/02/2015, ngày 07/02/2015, ngày 09/03/2015, ngày 11/03/2015, ngày 12/03/2015, ngày 16/03/2015, ngày 18/03/2015,  ngày  19/03/2015,  ngày  20/03/2015,  ngày 27/03/2015, ngày 04/04/2015, ngày 06/04/2015, ngày 07/04/2015, ngày 11/04/2015, ngày 13/04/2015, ngày 14/04/2015, ngày 17/04/2015, cho thấy Chủ Hộ kinh doanh A   đã nhận hàng mua của Công ty cổ phần K bao gồm các loại khóa, bản lề, clemon, thanh khóa với tổng đơn giá là 522.557.326đồng.

Bà L đại diện Công ty cổ phần K thừa nhận Chủ Hộ kinh doanh A  đã trả tiền mua hàng nêu trên được tổng cộng là 492.556.770đồng, và ngưng thanh toán từ ngày 28/4/2015 cho đến nay. Phía Chủ Hộ kinh doanh A  không có ý kiến.

Như vậy, căn cứ Điều 50 Luật Thương mại và khoản 1 Điều 66 Nghị định số 78/2015/NĐ-CP ngày 14/9/2015, bà Ng - Chủ Hộ kinh doanh A  phải thanh toán cho Công ty cổ phần K tiền mua hàng còn nợ là: 522.557.326đồng - 492.556.770đồng = 30.000.556đồng.

Thời hạn thanh toán: Căn cứ khoản 1 Điều 285 Bộ luật Dân sự quy định về thời hạn thực hiện nghĩa vụ do các bên thỏa thuận, vì vậy bà Ng - Chủ Hộ kinh doanh A  phải trả cho Công ty cổ phần K tiền mua hàng theo thỏa thuận tại điều 4 Hợp đồng nguyên tắc bán hàng năm 2015 số 028/CNKVT-HDDTT2015 ngày 02/01/2015 là “… bằng tiền mặt, séc, hoặc chuyển khoản cho từng lô hàng theo phương thức: Thanh toán làm 1 lần trong trong tháng vào ngày 26 đến 30 hàng tháng”. Tuy nhiên, Chủ Hộ kinh doanh A đã ngưng thanh toán từ ngày 28/4/2015 cho đến nay, là đã vi phạm thỏa thuận nêu trên, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của Công ty cổ phần K. Vì vậy, bà Ng - Chủ Hộ kinh doanh A  phải có trách nhiệm thanh toán cho Công ty cổ phần K toàn bộ số tiền mua hàng còn nợ là 30.000.556đồng một lần ngay sau khi án có hiệu lực pháp luật.

Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn là phù hợp với đạo đức của xã hội và quy định của pháp luật.

Ngoài ra, căn cứ Điều 306 Luật Thương mại thì trong trường hợp bà Ng - Chủ Hộ kinh doanh A  chậm trả tiền, Công ty cổ phần K có quyền yêu cầu trả tiền lãi trên số tiền chậm trả đó theo lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường tại thời điểm thanh toán tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.

[3]. Về án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm: Căn cứ khoản 1 Điều 147 của  Bộ  luật  Tố  tụng  dân  sự;  Nghị  quyết  số  326/2016/UBTVQH14  ngày 30/12/2016: Bà Ng - Chủ Hộ kinh doanh A  phải chịu án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm là: 3.000.000 đồng.

Do được chấp nhận toàn bộ yêu cầu, nên Công ty cổ phần K được hoàn trả lại toàn bộ số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 1.000.000đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí số AA/2016/0028139 ngày 06/10/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận 6.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 30, điểm b khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 40, khoản 2 Điều 92, khoản 1 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, Điều 266 và khoản 1 Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 122, khoản 1 Điều 285 Bộ luật Dân sự; Điều 24, Điều 50 Luật Thương mại; khoản 1 Điều 66 Nghị định số 78/2015/NĐ-CP ngày 14/9/2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu của Công ty cổ phần K:

Buộc bà Ng - Chủ Hộ kinh doanh A  phải có trách nhiệm thanh toán cho Công ty cổ phần K tiền mua hàng còn nợ là 30.000.556 (ba mươi triệu năm trăm năm  mươi  sáu)đồng,  theo  Hợp  đồng  nguyên  tắc  bán  hàng  năm  2015  số 028/CNKVT-HDDTT2015 ngày 02/01/2015 và các biên bản giao nhận hàng ngày 06/01/2015, ngày 07/01/2015, ngày 08/01/2015, ngày 10/01/2015, ngày 14/01/2015, ngày  15/01/2015, ngày  16/01/2015, ngày  26/01/2015, ngày 29/01/2015,  ngày 02/02/2015, ngày 07/02/2015, ngày 09/03/2015, ngày 11/03/2015, ngày 12/03/2015, ngày 16/03/2015, ngày 18/03/2015,  ngày  19/03/2015,  ngày  20/03/2015,  ngày 27/03/2015, ngày 04/04/2015, ngày 06/04/2015, ngày 07/04/2015, ngày 11/04/2015, ngày 13/04/2015, ngày 14/04/2015, ngày 17/04/2015.

Bà Ng - Chủ Hộ kinh doanh A  phải thanh toán cho Công ty cổ phần K toàn bộ số tiền 30.000.556 (ba mươi triệu năm trăm năm mươi sáu) đồng nêu trên làm một lần ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.

2. Kể từ ngày Công ty cổ phần K có đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi thi hành xong số tiền còn thiếu nêu trên, hàng tháng bà Ng - Chủ Hộ kinh doanh A  còn phải trả tiền lãi trên số tiền chậm trả theo lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường tại thời điểm thanh toán tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.

3. Về án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm:

Bà Ng - Chủ Hộ kinh doanh A  phải nộp án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm là 3.000.000 (Ba triệu) đồng.

Hoàn trả lại cho Công ty cổ phần K toàn bộ số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 1.000.000 (một triệu) đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí số AA/2016/0028139 ngày 06/10/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận 6.

4. Về quyền kháng cáo: Công ty cổ phần K có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bà Ng - Chủ Hộ kinh doanh A  được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

532
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 18/2018/KDTM-ST ngày 17/07/2018 về tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa

Số hiệu:18/2018/KDTM-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 6 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Kinh tế
Ngày ban hành: 17/07/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về