Bản án 18/2018/HS-ST ngày 29/05/2018 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN DẦU TIẾNG, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 18/2018/HS-ST NGÀY 29/05/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 29 tháng 5 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 09/2018/TLST-HS ngày 29 tháng 3  năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 13/2018/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 4 năm 2018 đối với bị cáo:

Họ và tên: Dương Hoài D (tên gọi khác T), sinh năm 1986; tại Bình Dương; hộ khẩu thường trú: Ấp Chiến Thắng, xã Định An, huyện D1, tỉnh Bình Dương; chỗ ở hiện nay: Khu phố 5, thị trấn D, huyện D1, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: Không biết chữ; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Dương Văn D, sinh năm 1957 và bà Nguyễn Thị C, sinh năm 1963; bị cáo có 05 anh chị em ruột, lớn nhất sinh năm 1982, nhỏ nhất sinh năm 1996; vợ: Tạ Thị Thu H, sinh năm 1985 và có 01 con sinh năm 2009; tiền án: Bị cáo có 02 tiền án: Ngày 30/8/2012, bị Tòa án nhân dân huyện D1, tỉnh Bình Dương xử phạt 04 (bốn) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 49/2012/HSST. Ngày 28/12/2015, bị Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Bình Dương xử phạt 12 (mười hai) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 91/2015/HSST; tiền sự: Không; bị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện D1 bắt, tạm giam từ ngày 25/10/2017; đến ngày 31/12/2017, bị cáo được trả tự do và áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú. Ngày 11/01/2018, bị cáo bị bắt tạm giam. Ngày 19/01/2018, bị Tòa án nhân dân huyện D2, tỉnh Tây Ninh xử phạt 03 năm 06 tháng tù theo Bản án hình sự số 04/2018/HS-ST, bản án bị kháng cáo; ngày 09/3/2018, TAND tỉnh Tây Ninh đình chỉ xét xử phúc thẩm bằng Quyết định số 04/2018/HSPT-QĐ; bị cáo đang chấp hành án tại Trại tạm giam Công an tỉnh Tây Ninh, có mặt tại phiên tòa.

- Ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1981; hộ khẩu thường trú: Ấp Thanh Tân, xã T, huyện D1, tỉnh Bình Dương (có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Ông Đặng Minh N, sinh ngày 29/8/2000; ngụ tại: Khu phố 5, thị trấn D, huyện D1, tỉnh Bình Dương. Có mẹ của ông N là bà Đặng Thị N, sinh năm 1975; ngụ tại: Khu phố 5, thị trấn D, huyện D1, tỉnh Bình Dương là người giám hộ cho ông N. (Ông N, bà N có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt).

2. Ông Nguyễn Minh T, sinh năm 1981; HKTT: Khu phố 1, thị trấn D, huyện D1, tỉnh Bình Dương (có đơn xin vắng mặt).

3. Ông Nguyễn Hùng C, sinh năm 1977; HKTT: Khu phố 2, thị trấn D, huyện D1, tỉnh Bình Dương (có đơn xin vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng tháng 6 năm 2017, Dương Hoài D thuê nhà tại khu phố 5, thị trấn D, huyện D1, tỉnh Bình Dương để ở và nuôi gà. Ngày 17/10/2017, Đặng Minh N, sinh ngày 29/8/2000, nơi cư trú: khu phố 5, thị trấn D, huyện D1, tỉnh Bình Dương đến nhà D chơi (D và N quen biết từ trước). Do D biết tại ấp Thanh Tân, xã T, huyện D1, tỉnh Bình Dương có người nuôi gà tre (loại gà đá) nên D rủ N đi trộm về bán lấy tiền tiêu xài, N đồng ý.

N ngủ ở nhà D đến khoảng 02 giờ 00 phút ngày 18/10/2017, cả hai thức dậy. D đưa cho N 01 chiếc điện thoại di động hiệu NOKIA, màu: đỏ - đen để liên lạc. Tiếp đó, D điều khiển xe mô tô Wave, màu sơn: đen, không có biển số (xe này D mượn của một người bạn, D không rõ nhân thân lai lịch) chở N đến khu vực ấp Thanh Tân, xã T, huyện D1, tỉnh Bình Dương để trộm gà. Khi đến nơi D nói N điều khiển xe đi chỗ khác ẩn nấp chờ D. Còn D trèo rào, vào vườn nhà Nguyễn Văn T, sinh năm 1981 nấp sau gốc cây cao su chờ cơ hội trộm gà. Đến khoảng 03 giờ cùng ngày, khi thấy người nhà T đi làm chỉ khép hờ cửa, D lén lút đi đến nhà kho của T; D lấy trộm 13 con gà. Mỗi con gà được D nhốt trong một cái giỏ và đem ra phía ngoài tường rào nhà ông T cất giấu. D tiếp tục vào nhà Thuận lấy trộm 01 heo đất và đập ra lấy được 250.000 đồng, D cầm tiền bỏ vào túi áo. Sau khi lấy được tài sản, D gọi điện thoại cho N đến chở D cùng với 13 con gà trong giỏ đem về nhà D.

Khoảng 05 giờ ngày 18/10/2017, D gọi điện thoại cho Nguyễn Minh T, sinh năm 1981, nơi cư trú: Khu phố 1, thị trấn D, huyện D1, tỉnh Bình Dương (T là bạn của D) nói cho T biết việc D mới trộm được 13 con gà. D muốn bán số gà trên cho T. T đồng ý mua 13 con gà do D trộm được với giá 2.000.000 đồng. Đến khoảng 06 giờ cùng ngày, D gặp T tại ấp Rạch Bắp, xã A, thị xã B, tỉnh

Bình Dương. Tại đây, T đưa cho D số tiền 2.000.000 đồng và nhờ D nuôi số gà trên. Đến ngày 21/10/2017, T đến nhà D bắt 01 con gà nặng 1,2kg trong số 13 con gà T mua của D (do trước khi đem đi đá gà T và D đem cân thì xác định con gà này nặng 1,2 kg). T đem đi đá gà. Do đá gà thua nên T đã làm con gà này để ăn thịt. Còn lại 12 con gà T nhờ D tiếp tục nuôi.

Sau khi phát hiện tài sản của gia đình bị mất trộm, Nguyễn Văn T đến Cơ quan công an xã Thanh An trình báo đồng thời tự đi tìm số gà trên.

Đến ngày 25/10/2017, T đến nhà của D thuê tại khu phố 5, thị trấn D, huyện D1 thì phát hiện gà của T được nuôi tại đây. T đã trình báo sự việc cho Công an thị trấn D và Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện D1 biết. Sau khi nhận được tin báo, lực lượng Công an đã đã đến hiện trường lập biên bản vụ việc và tạm giữ 12 con gà nêu trên đưa về trụ sở Công an thị trấn D1 để làm

việc. Qua cân đo, xác định tổng trọng lượng của 12 con gà là 14,02kg.

Cơ quan cảnh sát điều tra huyện D1 đã mời D đến trụ sở làm việc, quá trình làm việc, Dương Hoài D khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như trên. Ngày 25/10/2017, D bị bắt tạm giam. Đến ngày 31/12/2018, D được cho tại ngoại để điều tra.

Đồng thời, D còn khai nhận còn trộm cắp 01 xe mô tô nhãn YAMAHA Jupiter màu xanh, biển số 70E1-236.91, số máy 5VT1-101199, số khung: J5VT105Y101199 tại huyện Dương Minh Châu, tỉnh Tây Ninh. Sau đó D đem xe mô tô trộm được đến tiệm cầm đồ 168 cầm cho chủ tiệm là Nguyễn Hùng C, sinh năm 1977, ngụ tại khu phố 2, thị trấn D, huyện D1, tỉnh Bình Dương. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện D1 đã chuyển giao hồ sơ trộm cắp xe mô tô trên cho Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Dương Minh Châu, tỉnh Tây Ninh thụ lý giải quyết theo thẩm quyền.

Quá trình điều tra, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện D1 thu giữ các vật chứng gồm: Dương Hoài D tự nguyện giao nộp (bút lục 117):

+ 01 (một) ví da màu vàng;

+ 01 (một) chứng minh nhân dân số 290481922 mang tên Đoàn Công C, sinh ngày 20/12/1969, HKTT: ấp 1, Bến Củi, Dương Minh Châu, Tây Ninh cấp ngày 21/6/2010 tại Công an Tây Ninh;

+ 01 (một) giấy phép lái xe mang tên Dương Hoài D sinh năm 1986, HKTT: ấp An Phước, xã Đ, huyện D1, tỉnh Bình Dương;

+ 12 (mười hai) con gà giống đực, loại gà tre, trọng lượng 14,02kg;

+ 01 (một) điện thoại di động hiệu OPPO màu trắng, số IMEI: 867764023683991;

+01 (một) điện thoại di động hiệu NOKIA X2, màu đỏ - đen, số IMEI: 354346/04/967723/9.

- Thu giữ tại nhà Nguyễn Hùng C (bút lục 116):

+ 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA, loại: Jupiter, màu sơn: xanh, biển số: 70E1-236.91, số máy: 5VT1-101199, số khung: J5VT105y101199;

+ 01 (một) giấy chứng minh nhân dân mang tên Dương Hoài D, số 280836504, cấp ngày 04/8/2015;

+ 01 (một) giấy giấy đăng ký xe mô tô số 002951, mang tên Đoàn Công C, sinh năm 1969, biển số 70E1-236.91;

+ 01 (một) hợp đồng cầm đồ ngày 13/10/2017 giữa Nguyễn Hùng C và Dương Hoài D.

Ngày 27/10/2017, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện D1 ra Quyết định trưng cầu định giá tài sản số 61/QĐ trưng cầu Hội đồng định giá tài sản Ủy ban nhân dân huyện D1 định giá: 13 con gà (loại gà Tre) có tổng trọng lượng là 15,22 kg.

Tại bản Kết luận định giá tài sản số 50/KL-HĐĐG ngày 30/10/2017 của Hội đồng định giá tài sản Ủy ban nhân dân huyện D1 kết luận: 13 con gà (Loại gà tre) có tổng trọng lượng là 15,22kg, có giá trị là 120.000đồng x 15,22kg = 1.826.000 đồng (một triệu tám trăm hai mươi sáu ngàn đồng).

Như vậy, tổng giá trị tài sản do Dương Hoài D trộm cắp có giá trị là: 1.826.000 đồng (giá trị gà) và 250.000 đồng (tiền mặt) 2.076.000 đồng.

Đối với 01 (môt) xe mô tô YAMAHA Jupiter màu xanh, biển số 70E1- 236.91, số máy: 5VT1-101199, số khung: J5VT105y101199; 01 giấy chứng minh nhân dân tên Dương Hoài D số 280836504; 01 (một) chứng minh nhân dân số 290481922 mang tên Đoàn Công C do Công an tỉnh Tây Ninh cấp ngày 21/6/2010; 01 (một) giấy đăng ký xe mô tô số 002951 mang tên Đoàn Công C, biển số đăng ký 70E1-236.91; 01 (một) hợp đồng cầm đồ ngày 13/10/2017 giữa Nguyễn Hùng C và Dương Hoài D. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện D1 đã giao các vật chứng trên cho Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Dương Minh Châu, tỉnh Tây Ninh để xử lý theo quy định. 

Đối với 12 (mười hai) con gà trống, loại gà tre, tổng trọng lượng 14,02kg. Xét đây là tài sản hợp pháp của Nguyễn Văn T nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện D1 đã trả lại cho T theo biên bản về việc trả lại tài sản ngày 03/11/2017 (bút lục 133);

Đối với 01 (một) điện thoại di động hiệu OPPO màu trắng, số IMEI: 867764023683991; 01 (một) điện thoại di động hiệu NOKIA, màu đỏ - đen và

01 (một) điện thoại di động hiệu NOKIA X2, số IMEI: 354346/04/967723/9. Quá trình điều tra xác định đây là phương tiện do Dương Hoài D sử dụng vào việc phạm tội nên đề nghị tịch thu sung công quỹ Nhà nước.

Đối với 01 (một) ví da màu vàng; 01 (một) giấy phép lái xe mang tên Dương Hoài D, quá trình điều tra xác định đây là tài sản hợp pháp của D nên đề nghị trả cho D;

Đối với 01 (một) xe mô tô màu sơn đen, không rõ biển số do D sử dụng làm phương tiện phạm tội. Sau khi thực hiện hành vi phạm tội, D đã trả xe mô tô trên cho một người không rõ nhân thân lai lịch. Quá trình điều tra không thu giữ được nên không đặt ra xử lý.

Đối với hành vi của Đặng Minh N cùng Dương Hoài D thực hiện trộm cắp 13 con gà tổng trị giá 1.826.000 đồng (còn 250.000 đồng N không biết D trộm) và N chưa có tiền án. Do vậy, hành vi của N chưa đủ yếu tố cấu thành tội trộm cắp tài sản nên không xử lý hình sự. Ngày 02/3/2018, Công an huyện D1 đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 08/QĐ-XPHC đối với Đặng Minh N số tiền 3.500.000 đồng về hành vi vi phạm hành chính trộm cắp tài sản.

Đối với hành vi của Nguyễn Minh T, tiêu thụ 13 con gà tổng trị giá 1.826.000 đồng do Dương Hoài D trộm cắp mà có và T chưa có tiền án. Do vậy, hành vi của T chưa đủ yếu tố cấu thành tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có. Ngày 02/3/2018, Công an huyện D1 đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 07/QĐ-XPHC xử phạt hành chính đối với Nguyễn Minh T số tiền 750.000 đồng về hành vi vi phạm hành chính mua tài sản của người khác mà biết rõ tài sản đó do vi phạm pháp luật mà có.

Bị hại Nguyễn Văn T yêu cầu D bồi thường số tiền đã trộm cắp của bị hại là 250.000 đồng và 01 con gà tre trọng lượng 1,2 kg trị giá 144.000 đồng. Xét thấy yêu cầu của bị hại là phù hợp với Điều 584 Bộ luật dân sự năm 2015. Buộc Dương Hoài D bồi thường cho T tổng số tiền là 394.000 đồng.

Tại Bản Cáo trạng số 10/CT-VKSDT-HS ngày 28/3/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Dương Hoài D về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 138 của Bộ luật Hình sự năm 1999, được sửa đổi bổ sung năm 2009. Do ngoài lần phạm tội này, bị cáo D đã có hai tiền án về tội trộm cắp tài sản chưa được xóa án tích; nay lại tiếp tục phạm tội mới do cố ý nên thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện D1, tỉnh Bình Dương giữ nguyên quan điểm và quyết định truy tố đối với bị cáo Dương Hoài D về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 138 của Bộ luật Hình sự năm 1999, được sửa đổi bổ sung năm 2009 và đề nghị:

- Về hình phạt: Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 138 của Bộ luật Hình sự năm 1999, được sửa đổi bổ sung năm 2009; điểm g, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 của Bộ luật Hình sự năm 1999, được sửa đổi bổ sung năm 2009; Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội khóa 14, xử phạt bị cáo Dương Hoài D từ 30 (ba mươi) tháng tù đến 36 (ba mươi sáu) tháng tù. Và đề nghị áp dụng Điều 55, 56 Bộ luật hình sự năm 2015 để tổng hợp hình phạt với bản án số 04/2018/HS-ST ngày 19/01/2018 của Tòa án nhân dân huyện Dương Minh Châu tỉnh Tây Ninh đã xử bị cáo Dương Hoài D 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm c Khoản 2 Điều 138 của Bộ luật Hình sự năm 1999, được sửa đổi bổ sung năm 2009.

- Về trách nhiệm dân sự: Buộc Dương Hoài D bồi thường cho T tổng số tiền là 394.000 đồng gồm: Tiền bồi thường số tiền đã trộm cắp của bị hại là 250.000 đồng và 01 con gà tre trọng lượng 1,2 kg trị giá 144.000 đồng.

- Về biện pháp tư pháp: Đối với 01 (một) điện thoại di động hiệu OPPO màu trắng, số IMEI: 867764023683991; 01 (một) điện thoại di động hiệu NOKIA, màu đỏ - đen và 01 (một) điện thoại di động hiệu NOKIA X2, số IMEI: 354346/04/967723/9. Quá trình điều tra xác định đây là phương tiện do Dương Hoài D sử dụng vào việc phạm tội nên đề nghị tịch thu sung công quỹ Nhà nước.

Tại phiên tòa, bị cáo D đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt để các bị cáo sớm có điều kiện cải tạo làm người công dân tốt, có ích cho gia đình và xã hội.

Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử công bố lời trình bày của những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan (ông Đặng Minh N, ông Nguyễn Minh T, ông Nguyễn Hùng C) và đơn yêu cầu xét xử vắng mặt của họ, họ không có yêu cầu gì khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện D1, Điều tra viên, cơ quan Viện kiểm sát nhân dân huyện D1, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục của Bộ luật Tố tụng hình sự quy định và không bị ai khiếu nại gì về việc tiến hành các hoạt động tố tụng, thu thập chứng cứ đối với vụ án nên toàn bộ hoạt động tố tụng, thu thập chứng cứ có trong hồ sơ đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Dương Hoài D đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, cụ thể: Khoảng 03 giờ 00 phút, ngày 18/10/2017, tại ấp Thanh Tân, xã T, huyện D1, tỉnh Bình Dương, Dương Hoài D lén lút trộm cắp 13 (mười ba) con gà của Nguyễn Văn T trị giá 1.826.000 đồng và số tiền 250.000 đồng. Tổng giá trị tài sản do Dương Hoài D trộm cắp là 2.076.000 đồng. Lời khai nhận của bị cáo D tại phiên tòa là phù hợp với lời khai trong quá trình điều tra, lời khai của người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cùng các tài liệu chứng cứ khác đã thu thập có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra công khai tại phiên tòa. Do ngoài lần phạm tội này, bị cáo D đã có hai tiền án về tội trộm cắp tài sản chưa được xóa án tích (cụ thể: Ngày 30/8/2012, bị Tòa án nhân dân huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương xử phạt 04 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 49/2012/HSST. Ngày 28/12/2015, bị Tòa án nhân dân huyện Bàu Bàng, tỉnh Bình Dương xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 91/2015/HSST); nay lại tiếp tục phạm tội mới do cố ý nên thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm. Do đó, có đủ cơ sở xác định Cáo trạng số 10/CT-VKSDT- HS ngày 28/3/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương truy tố đối với bị cáo D về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 138 của Bộ luật Hình sự năm 1999, được sửa đổi bổ sung năm 2009 là hoàn toàn có căn cứ và đúng quy định pháp luật.

[3] Hành vi trộm cắp tài sản của bị cáo D đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của bị hại được pháp luật hình sự bảo vệ, làm ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự tại địa phương nơi xảy ra vụ án, gây hoang mang, lo sợ trong quần chúng nhân dân khi phải vắng nhà. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực hành vi, đều biết việc lén lút lấy cắp tài sản của người khác là vi phạm pháp luật nhưng bất chấp hậu quả. Tài sản hai bị cáo có hành vi chiếm đoạt đã được Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự xác định có tổng trị giá là trị giá 1.826.000 đồng theo bản Kết luận định giá tài sản số 50/KL-HĐĐG ngày 30/10/2017 và trộm số tiền 250.000 đồng. Và bị cáo D đã có hai tiền án về tội trộm cắp tài sản chưa được xóa án tích; nay lại tiếp tục phạm tội mới do cố ý nên thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm. Do đó, bị cáo D bị truy tố và đưa ra xét xử về tội trộm cắp tài sản theo điểm c khoản 2 Điều 138 của Bộ luật Hình sự năm 1999, được sửa đổi bổ sung năm 2009 là hoàn toàn phù hợp, đúng quy định.

[4] Hành vi trộm cắp tài sản của bị cáo D cùng với người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Đặng Minh N có tính đồng phạm giản đơn, xuất phát từ bản tính lười lao động, tham lam, tư lợi cá nhân, muốn có được tài sản mà không cần phải bỏ sức lao động.

[5] Mặc dù trị giá tài sản hai bị cáo có hành vi chiếm đoạt là không lớn nhưng bị cáo có nhân thân xấu (có 02 tiền án chưa được xóa án tích) nên xét xử bằng hình phạt tù để có điều kiện giáo dục và cải tạo các bị cáo thành người công dân tốt sau này cũng như răn đe, phòng ngừa chung cho xã hội.

[6] Khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử có xem xét đến các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho hai bị cáo như: Bị cáo thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải; tài sản bị cáo chiếm đoạt có giá trị không lớn là tình tiết giảm nhẹ theo quy định điểm h, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017 và bị cáo là người không biết chữ, trình độ nhận thức pháp luật kém là tình tiết giảm nhẹ theo quy định khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017, Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội khóa 14. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định.

[7] Ý kiến luận tội của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa đối với bị cáo Dư về phần tội danh, điều khoản truy tố là có căn cứ phù hợp với các tình tiết của vụ án đã được thẩm tra công khai tại phiên tòa nên được Hội đồng xét xử chấp nhận. Tuy nhiên, mức hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị đối với bị cáo từ 30 tháng đến 36 tháng tù là quá cao so với hành vi phạm tội của bị cáo. Hội đồng xét xử quyết định hình phạt đối với bị cáo nhẹ hơn mức mà đại diện Viện kiểm sát huyện D1 đề nghị.

Áp dụng Điều 55, 56 Bộ luật hình sự năm 2015 để tổng hợp hình phạt với bản án số 04/2018/HS-ST ngày 19/01/2018 của TAND huyện Dương Minh Châu tỉnh Tây Ninh đã xử bị cáo Dương Hoài D 03 năm 06 tháng tù về tội “trộm cắp tài sản” theo Điểm c Khoản 2 Điều 138 của Bộ luật Hình sự năm 1999, được sửa đổi bổ sung năm 2009.

[8] Đối với hành vi của Đặng Minh N cùng Dương Hoài D thực hiện trộm cắp 13 con gà tổng trị giá 1.826.000 đồng (còn 250.000 đồng N không biết D trộm) và N chưa có tiền án, chưa đủ yếu tố cấu thành tội trộm cắp tài sản nên không xử lý hình sự. Ngày 02/3/2018, Công an huyện Dầu Tiếng đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 08/QĐ-XPHC đối với Đặng Minh N số tiền 3.500.000 đồng về hành vi vi phạm hành chính trộm cắp tài sản là đúng với quy định của pháp luật.

Đối với hành vi của Nguyễn Minh T, tiêu thụ 13 con gà tổng trị giá 1.826.000 đồng do Dương Hoài D trộm cắp mà có và T chưa có tiền án nên chưa đủ yếu tố cấu thành tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có. Ngày 02/3/2018, Công an huyện D1 đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 07/QĐ-XPHC xử phạt hành chính đối với Nguyễn Minh T số tiền 750.000 đồng về hành vi vi phạm hành chính mua tài sản của người khác mà biết rõ tài sản đó do vi phạm pháp luật mà có là đúng với quy định của pháp luật.

[9] Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra, cơ quan Cảnh sát điều tra đã thu hồi tài sản bị chiếm đoạt và đã trao trả cho người bị hại (12 con gà Tre). Buộc Dương Hoài D bồi thường cho ông T tổng số tiền là 394.000 đồng gồm: Tiền bồi thường số tiền đã trộm cắp của bị hại là 250.000 đồng và 01 con gà tre trọng lượng 1,2 kg trị giá 144.000 đồng.

[10] Về xử lý vật chứng:

+ Đối với 01 (môt) xe mô tô YAMAHA Jupiter màu xanh, biển số 70E1-

236.91, số máy: 5VT1-101199, số khung: J5VT105y101199; 01 giấy chứng minh nhân dân tên Dương Hoài D số 280836504; 01 (một) chứng minh nhân dân số 290481922 mang tên Đoàn Công C do Công an tỉnh Tây Ninh cấp ngày 21/6/2010; 01 (một) giấy đăng ký xe mô tô số 002951 mang tên Đoàn Công C, biển số đăng ký 70E1-236.91; 01 (một) hợp đồng cầm đồ ngày 13/10/2017 giữa Nguyễn Hùng C và Dương Hoài D. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện D1 đã giao các vật chứng trên cho Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Dương Minh Châu, tỉnh Tây Ninh để xử lý theo quy định.

+ Đối với 12 (mười hai) con gà trống, loại gà tre, tổng trọng lượng 14,02kg. Xét đây là tài sản hợp pháp của Nguyễn Văn T nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện D1 đã trả lại cho T theo biên bản về việc trả lại tài sản ngày 03/11/2017.

+ Đối với 01 (một) điện thoại di động hiệu OPPO màu trắng, số IMEI: 867764023683991; 01 (một) điện thoại di động hiệu NOKIA, màu đỏ - đen và 01 (một) điện thoại di động hiệu NOKIA X2, số IMEI: 354346/04/967723/9. Quá trình điều tra xác định đây là phương tiện do Dương Hoài D sử dụng vào việc phạm tội nên đề nghị tịch thu sung công quỹ Nhà nước.

+ Đối với 01 (một) ví da màu vàng; 01 (một) giấy phép lái xe mang tên Dương Hoài D, quá trình điều tra xác định đây là tài sản hợp pháp của D nên đề nghị trả cho D.

+ Đối với 01 (một) xe mô tô màu sơn đen, không rõ biển số do D sử dụng làm phương tiện phạm tội. Sau khi thực hiện hành vi phạm tội, D đã trả xe mô tô trên cho một người không rõ nhân thân lai lịch. Quá trình điều tra không thu giữ được nên không đặt ra xử lý.

[11] Bị cáo D phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

I. Hình phạt: Tuyên bố bị cáo Dương Hoài D phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Căn cứ điểm c khoản 2 Điều 138 của Bộ luật Hình sự năm 1999, được sửa đổi bổ sung năm 2009; điểm h, s khoản 1 khoản 2 Điều 51, Điều 55, Điều 56 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017; Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội khóa 14:

Xử phạt bị cáo Dương Hoài D 02 (hai) năm tù về tội “trộm cắp tài sản”. Tổng hợp hình phạt với bản án số 04/2018/HS-ST ngày 19/01/2018 của TAND huyện Dương Minh Châu tỉnh Tây Ninh đã xử bị cáo Dương Hoài D 03 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm c khoản 2 Điều 138 của Bộ luật Hình sự năm 1999, được sửa đổi bổ sung năm 2009. Hình phạt chung bị cáo D phải chấp hành chung đối với hai bản án là 05 (năm) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 11/01/2018; được khấu trừ thời gian tạm giam trước từ ngày 25/10/2017 đến ngày 31/12/2017. 

II. Trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều 584, 589 Bộ luật dân sự năm 2015; Điều 46 Bộ luật hình sự năm 2015. Buộc bị cáo Dương Hoài D bồi thường cho ông Nguyễn Văn T tổng số tiền là 394.000 (Ba trăm chín mươi bốn ngàn) đồng (gồm tiền bồi thường số tiền đã trộm cắp của bị hại là 250.000 đồng và 01 con gà tre trọng lượng 1,2 kg trị giá 144.000 đồng).

III. Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017, tuyên: Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước đối với 01 (một) điện thoại di động hiệu OPPO màu trắng, số IMEI: 867764023683991; 01 (một) điện thoại di động hiệu NOKIA, màu đỏ - đen và 01 (một) điện thoại di động hiệu NOKIA X2, số IMEI: 354346/04/967723/9.

(Tài sản hiện do Chi cục Thi hành án dân sự huyện D1, tỉnh ình Dương quản lý thể hiện tại biên bản giao nhận vật chứng số tờ 28/2018 ngày 28/02/2018).

Trả lại cho Dương Hoài D 01 (một) ví da màu vàng; 01 (một) giấy phép lái xe mang tên Dương Hoài D.  (Tài sản hiện do Chi cục Thi hành án dân sự huyện D1, tỉnh ình Dương quản lý thể hiện tại biên bản giao nhận vật chứng số tờ 28/2018 ngày 28/02/2018).

IV. Án phí: Căn cứ các Điều 135, 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 31/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội 14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Dương Hoài D phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng). Án phí dân sự sơ thẩm: Bị cáo Dương Hoài D phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng). 

Bị cáo có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày Tòa tuyên án (ngày 29/5/2018).Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày Bản án được tống đạt hợp lệ theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

241
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 18/2018/HS-ST ngày 29/05/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:18/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Dầu Tiếng - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/05/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về