Bản án 18/2018/HS-ST ngày 24/05/2018 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ QUẢNG NGÃI, TỈNH QUẢNG NGÃI

BẢN ÁN 18/2018/HS-ST NGÀY 24/05/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 24 tháng 5 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 20/2018/TLST-HS ngày 26 tháng 4 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 06/2018/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 5 năm 2018 đối với bị cáo:

 Phạm Văn T, tên gọi khác: T bò kẹp, sinh năm 1980, nơi sinh: Tỉnh AnGiang, nơi cư trú: Tổ 4, Khóm 3, thị  trấn CL, huyện TB, tỉnh AG, nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 0/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Văn L (chết) và bà Nguyễn Thị B; Vợ, con: Chưa có; tiền án, cụ thể:

- Ngày 04/11/2008 thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, tại bản án số 10/HSST ngày 07/3/2001 của TAND huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang tuyên phạt12 tháng tù giam về tội “Trộm cắp tài sản”, ngày 24/11/2001 chấp hành xong hình phạt.

 - Ngày 24/02/2002 thực hiện hành vi giết người, tại bản án số 189/HSST ngày 07/11/2002 của TAND tỉnh An Giang tuyên phạt 13 năm tù giam về tội “Giết người”, Tùng kháng cáo tại bản án số 409/HSPT ngày 26/3/2003 của Tòa phúc thẩm tại Thành phố Hồ Chí Minh tuyên phạt 13 năm tù giam, ngày 28/02/2015 chấp hành xong hình phạt.

- Ngày 21/6/2015 thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, tại bản án số 222/2015/HS-ST ngày 29/9/2015 của TAND thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang tuyên phạt 15 tháng tù giam về tội “Trộm cắp tài sản”, ngày 21/9/2016 chấp hành xong hình phạt.

Tiền sự: Không; bị bắt giam từ ngày 03/9/2017, có mặt tại phiên tòa.

Người bị hại:

1/ Ông Nguyễn Thái H, sinh năm 1985, địa chỉ nơi công tác: NH, thị xã AN, tỉnh BĐ. Địa chỉ ĐKHKTT: Thôn VT, xã MT, huyện PM, tỉnh BĐ, vắng mặt tại phiên tòa.

2/ Bà Nguyễn Thị Hồng T, sinh năm 1980, địa chỉ: Thôn TV, xã SD, huyện ST, tỉnh QN, vắng mặt tại phiên tòa.

3/ Bà Đinh Thị M, sinh năm 1981, địa chỉ: Tổ dân phố Nước B, thị trấn D L, huyện SH, tỉnh QN. Địa chỉ làm việc: Phòng dân tộc huyện SH, địa chỉ: Thị trấn DL, huyện SH, tỉnh QN, vắng mặt tại phiên tòa.

Người làm chứng:

1/ Ông Huỳnh Phương C, sinh năm 1984, địa chỉ: Thôn CTB, xã BC, huyện BS, tỉnh QN, vắng mặt tại phiên tòa.

2/ Ông Phạm Huy B, sinh năm 1981, địa chỉ: Tổ 18, phường TP, thànhphố QN, tỉnh QN, vắng mặt tại phiên  tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:Phạm  Văn T không có nghề nghiệp, để có tiền tiêu xài nên Tùng đã 02 lần thực hiện hành vi trộm cắp tài sản trên địa bàn thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định và thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi. Cụ thể:

Vào ngày 01/9/2017, Phạm Văn T đón xe khách từ Thành phố Hồ ChíMinh ra thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình  Định để tìm tài sản trộm cắp. Đến khoảng 23 giờ ngày 02/9/2017,  Tvào bệnh viện đa khoa tỉnh Bình Định, khi đi đến phòng bệnh số 4 của Khoa Nhi bệnh viện thì T thấy Nguyễn Thái H đangnằm ngủ có để 01 điện thoại di  động hiệu Oppo, màu Gold đang sạc pin và treo01 quần dài bên cạnh, nên T đã  lén lút chiếm đoạt chiếc điện thoại trên và lục túi quần lấy trộm số tiền 500.000 đồng của ông H.

Sau khi trộm cắp tài sản ở bệnh viện đa khoa tỉnh Bình Định xong, T đón xe khách ra thành phố Quảng Ngãi. Đến khoảng 03 giờ 00 ngày 03/9/2017, T đến nơi và đi vào Bệnh viện đa khoa tỉnh Quảng Ngãi để trộm cắp tài sản. Tại đây, T đi lên các tầng lầu của Bệnh viện. Khi đi đến phòng số 04 tầng 04, T phát hiện Nguyễn Thị Hồng T đang ngủ có để 01 điện thoại di động màn hình cảm ứng hiệu Oppo, màu hồng đang sạc pin trên đầu tủ sắt trong phòng nên T đã lén lút trộm cắp.

Sau đó, T tiếp tục đi xuống đến phòng số 05 tầng 01 của Bệnh viện thì T phát hiện Đinh Thị M đang ngủ bên cạnh có để 01 điện thoại di động màn hình cảm ứng hiệu Huawei, màu đồng (bên ngoài có vỏ bọc bằng nhựa màu đen) nên T lén lút trộm cắp chiếc điện thoại. Khi T đến tầng trệt của bệnh viện thì bị Huỳnh Phương C và Phạm Huy B giữ lại vì nghi ngờ T trộm cắp và mời công an phường Nghĩa Lộ đến làm việc.

Ngoài ra, T còn khai nhận đã thực hiện hành vi trộm cắp tài sản của một thanh niên tên Hùng (không rõ lai lịch) ở Thành phố Hồ Chí Minh, gồm: 01 máy tính bảng màu vàng, hiệu Tab7S; 01 điện thoại di động màu trắng, hiệu Iphone5; 01 điện thoại di động màu đen, hiệu Iphone4; 01 điện thoại di động màu trắng, không rõ nhãn hiệu; 01 điện thoại di động màu đỏ, hiệu Inew, có ốp lưng màu đen; 01 điện thoại di động màu đen, hiệu Nokia.

Ngày 06/9/2017, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Quảng Ngãi tiến hành định giá, kết luận:

+ 01 điện thoại di động hiệu Oppo màu hồng, trị giá: 1.400.000 đồng;

+ 01 điện thoại di động hiệu HuaWei, màu đồng, trị giá: 700.000 đồng. Tổng cộng: 2.100.000 đồng.

Ngày 29/10/2017, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định tiến hành định giá, kết luận: 01 điện thoại di động hiệu Oppo, màu gold, trị giá: 2.600.000 đồng.

Như vậy, tổng trị giá tài sản Tùng đã chiếm đoạt là 5.200.000 đồng (trong đó: trị giá 03 chiếc điện thoại di động: 4.700.000 đồng và 500.000 đồng tiền mặt).

Bản cáo trạng số: 11/CT-VKS ngày 27/02/2018 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Quảng Ngãi truy tố Phạm Văn T về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm c khoản 2 Điều 138 của Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: Điểm c khoản 2 Điều 138, điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46, điểm g khoản 1 Điều 48, Điều 33 của Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009. Xử phạt: Phạm Văn T từ 05 năm đến 06 năm tù.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo Phạm Văn T khai nhận hành vi phạm tội:

Trong ngày 02/9/2017 tại bệnh viện đa khoa tỉnh Bình Định và ngày 03/9/2017 tại bệnh viện đa khoa tỉnh Quảng Ngãi, Tùng đã thực hiện hành vi trộm cắp tài sản với tổng trị giá 5.200.000 đồng (gồm: 03 chiếc điện thoại di động trị giá: 4.700.000 đồng và tiền mặt 500.000 đồng) của các bà Nguyễn Thị Hồng T, ĐinhThị M và ông Nguyễn Thái  H.

Lời khai nhận tội của bị cáo T tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo T tại các biên bản hỏi cung bị can, phù hợp với lời khai của người bị hại bà Nguyễn Thị Hồng T, Đinh Thị M và ông Nguyễn Thái H, lời khai của các nhân chứng ông Huỳnh Phương C, ông Phạm Huy B, phù hợp với bản kết luận định giá Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Quảng Ngãi và thành phố Quy Nhơn. Hành vi bị cáo T trộm cắp tài sản có 03 tiền án đã tái phạm chưa được xóa án tích nhưng tiếp tục phạm tội mới nên thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm quy định tại điểm b khoản 2 Điều 49 Bộ luật hình sự năm 1999 là tình tiết tăng nặng định khung hình phạt.

Như vậy, có đủ căn cứ kết luận: Hành vi của bị cáo Phạm Văn T phạm tội “trộm cắp tài sản” quy định tại điểm c khoản 2 Điều 138 của Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009.

Bị cáo T là người có năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ được việc trộm cắp tài sản của người khác là vi phạm pháp luật, nhưng do lười lao động mà muốn có tiền tiêu xài nên đã thực hiện hành vi trộm cắp tài sản. Bị cáo T phạm tội nhiều lần (02 lần) đây là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được qui định tại điểm g khoản 1 Điều 48 BLHS năm 1999. Do vậy, cần phải xử lý nghiêm minh để giáo dục riêng và phòng ngừa chung cho toàn xã hội.

Tuy nhiên, bị cáo T thành khẩn khai báo hành vi phạm tội, sau khi bị bắt bị cáo đã khai ra hành vi trộm cắp tài sản tại thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định là đầu thú. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999 nên xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Phạm Văn T khai nhận trộm cắp tài sản của một thanh niên tên Hùng(không rõ lai lịch) tại Thành phố Hồ Chí  Minh, gồm: 01 máy tính bảng hiệuTab7S; 01 điện thoại di động  Iphone5; 01 điện thoại di động Iphone4; 01 điện thoại di động màu trắng, không rõ nhãn hiệu; 01 điện thoại di động hiệu Inew;01 điện thoại di động hiệu Nokia. Cơ quan điều tra không tìm  được người bị hại và cũng không xác định được nơi xảy ra vụ trộm cắp là quận, huyện nào của Thành phố Hồ Chí Minh nên không thể ủy thác điều tra, do đó không có căn cứ để xử lý hành vi trộm cắp tài sản của T trong lần trộm cắp này. Vì vậy, việc tiến hành định giá tài sản cũng không cần thiết.

[2] Về trách nhiệm bồi thường thiệt hại: Các bà Nguyễn Thị Hồng T, Đinh Thị M và ông Nguyễn Thái H đã nhận lại tài sản, không có yêu cầu nên không xem xét.

[3] Về xử lý vật chứng:

Cơ quan điều tra đã thu giữ và trả lại cho: Bà Nguyễn Thị Hồng T 01 điện thoại di động màn hình cảm ứng hiệu Oppo, màu hồng, bà Đinh Thị M 01 điện thoại di động màn hình cảm ứng hiệu Huawei, màu đồng, ông Nguyễn Thái H01 điện thoại di động hiệu Oppo, màu gold, và số tiền 500.000 đồng là có căn cứ.

Đối với 02 chiếc điện thoại hiệu Samsung và 01 chiếc ví bên trong có số tiền 4.500.000 đồng (chiếc ví bên trong có số tiền 5.000.000 đồng, trong đó 500.000 đồng là số tiền trộm được của ông Nguyễn Thái H). Đây là tài sản riêng của bị cáo T nên cơ quan điều tra đã trả lại cho bị cáo T.

Đối với số tài sản cơ quan điều tra đã thu giữ gồm: 01 máy tính bảng màuvàng, hiệu Tab7S; 01 điện thoại di  động màu trắng, hiệu Iphone5; 01 điện thoại di động màu đen, hiệu Iphone4; 01 điện thoại di động màu trắng, không rõ nhãn hiệu; 01 điện thoại di động màu đỏ, hiệu Inew, có ốp lưng màu đen; 01 điện thoại di động màu đen, hiệu Nokia. Đây là số tài sản T khai nhận đã trộm cắp của một người tên Hùng không rõ nhân thân lai lịch nên cơ quan điều tra không có cơ sở để xác minh làm rõ. Vì vậy, thu sung quỹ Nhà nước.

[4] Về án phí trong vụ án hình sự: Bị cáo T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm 200.000 đồng.

[5] Đề nghị của đại diện viện kiểm sát nhân dân thành phố Quảng Ngãi về mức hình phạt đối với bị cáo T, xứ lý vật chứng là phù hợp với nhận định trên nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 2 Điều 138, điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46, điểm g khoản 1 Điều 48, Điều 33 của Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009.

Tuyên bố bị cáo Phạm Văn T, tên gọi khác: T bò kẹp phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt: Phạm Văn T 05 (năm) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 03/9/2017.

Về trách nhiệm bồi thường thiệt hại: Các bà Nguyễn Thị Hồng T, Đinh Thị M và ông Nguyễn Thái H đã nhận lại tài sản, không có yêu cầu bồi thường nên không xem xét.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Sung quỹ Nhà nước: 01 máy tính bảng hiệu Tab7S; 01 điện thoại di động hiệu Iphone5; 01 điện thoại di động Iphone4; 01 điện thoại di động màu trắng, không rõ nhãn hiệu; 01 điện thoại di động hiệu Inew; 01 điện thoại di động hiệu Nokia (Các vật chứng trên có đặc điểm tại Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 22/3/2018 giữa Công an thành phố Quảng Ngãi và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Quảng Ngãi).

Về án phí trong vụ án hình sự: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự.

Bị cáo Phạm Văn T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng).

Về thời hạn kháng cáo: Áp dụng Điều 313 Bộ luật tố tụng hình sự.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Người bị hại vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, tính từ ngày bản án được giao hoặc được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

275
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 18/2018/HS-ST ngày 24/05/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:18/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Quảng Ngãi - Quảng Ngãi
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/05/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về