Bản án 18/2018/HS-ST ngày 07/11/2018 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN  THỊ XÃ HƯƠNG T, TỈNH THỪA THIÊN H

BẢN ÁN 18/2018/HS-ST NGÀY 07/11/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 07 tháng 11 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên H xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 23/2018/TLST-HS ngày 26 tháng 9 năm 2018 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Nguyễn Viết T, tên gọi khác: Không, sinh ngày 03/07/2000, tại: tỉnh Thừa Thiên H; Nơi ĐKNKTT và chỗ ở hiện nay: Tổ dân phố An Hòa, phường Hương An, thị xã Hương T, tỉnh Thừa Thiên H; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 05/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Viết Tr (đã chết) và bà Nguyễn Thị X; Gia đình có 02 anh em ruột bị cáo là con đầu trong gia đình; vợ, con: Chưa có; tiền án: 01 tiền án, ngày 28/9/2017 bị Tòa án nhân dân thành phố H, tỉnh Thừa Thiên H xử phạt 12 tháng tù về tội trộm cắp tài sản, tại bản án số 234/2017/HSST; Tiền sự: 01 tiền sự, ngày 26/02/2016 bị UBND phường Hương An ra Quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại phường trong thời gian từ ngày 26/02/2016 đến ngày 26/8/2016 về hành vi nhiều lần trộm cắp tài sản; về nhân thân: Ngày 23/10/2015 bị Công an phường Hương Hồ, thị xã Hương T, tỉnh Thừa Thiên H xử phạt hành chính bằng hình thức cảnh cáo về hành vi trộm cắp tài sản; ngày 17/01/2016 bị Công an phường Hương L, thành phố H tỉnh Thừa Thiên H xử phạt hành chính bằng hình thức cảnh cáo về hành vi trộm cắp tài sản; Ngày 26/02/2016 Bị UBND phường Hương An, thị xã Hương T ra quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại phường về hành vi nhiều lần trộm cắp tài sản; Ngày 23/7/2016 bị Công an phường Hương Hồ, thị xã Hương T, tỉnh Thừa Thiên H xử phạt hành chính bằng hình thức cảnh cáo về hành vi trộm cắp tài sản. Ngày 28/9/2017 bị Tòa án nhân dân thành phố H, tỉnh Thừa Thiên H xử phạt 12 tháng tù về tội trộm cắp tài sản. Bị cáo hiện đang bị tạm giam trong một vụ án khác, có mặt.

2. Họ và tên: Võ Văn T, tên gọi khác: Không, sinh ngày 31/8/2000 tại: tỉnh Thừa Thiên H; Nơi ĐKNKTT và chỗ ở hiện nay: 57/28 Nguyễn Hoàng, phường Hương Long, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên H; nghề nghiệp: Học nghề cắt tóc; trình độ văn hóa: 06/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Võ Phan Q và bà Dương Thị C; Anh chị em ruột có 02 người bị cáo là con thứ trong gia đình; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, có mặt.

- Bào chữa cho bị cáo Nguyễn Viết T có ông Hồ Ngọc L - Trợ giúp viên Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh TT H. Có mặt.

- Bào chữa cho bị cáo Võ Văn T có bà Nguyễn Thị Ngọc Á - Trợ giúp viên Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh TT H. Có mặt.

- Bị hại:

+ Bà Tôn Nữ Ngọc Ch, sinh năm 1959. Trú tại: Tổ dân phố 5, phường Hương Hồ, thị xã Hương T, tỉnh Thừa Thiên H. Vắng mặt.

+ Ông Ngô Đình C, sinh năm 1974. Trú tại: Tổ dân phố 3, phường Hương Hồ, thị xã Hương T, tỉnh Thừa Thiên H. Vắng mặt.

+ Ông Phan Văn T, sinh năm 1975. Trú tại: Tổ dân phố 9 An Hòa, phường Hương An, thị xã Hương T, tỉnh Thừa Thiên H. Có mặt.

+ Chị Phan Thị Nh, sinh năm 1988. Trú tại: Tổ dân phố An Hòa, phường Hương An, thị xã Hương T, tỉnh Thừa Thiên H. Vắng mặt.

+ Chị Trần Thị Quỳnh N, sinh năm 1994. Trú tại: Tổ dân phố 3, phường Hương Hồ, thị xã Hương T, tỉnh Thừa Thiên H. Vắng mặt.

+ Chị Nguyễn Thị Kim L, sinh năm 1978. Trú tại: Tổ dân phố 3, phường Hương Hồ, thị xã Hương T, tỉnh Thừa Thiên H. Vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

+ Bà Nguyễn Thị X, sinh năm 1973. Trú tại: Tổ dân phố An Hòa, phường Hương An, thị xã Hương T, tỉnh Thừa Thiên H. Vắng mặt.

+ Anh Trần Viết T, sinh năm 1998. Trú tại: 6/8 Nguyễn Hữu Dật, phường Hương Long, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên H. Có mặt.

+ Chị Nguyễn Thị Nguyên Th, sinh năm 1981. Trú tại: 94/01 Phạm Thị Liên, phường Kim Long, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên H. Vắng mặt.

+ Anh Lê Đức A, sinh năm 1994. Trú tại: Thôn 2, Vinh Hà, Phú V, Thừa Thiên H. Có mặt.

+ Anh Trần Thái L, sinh năm 1998. Trú tại: 6/130 Nguyễn Trãi, phường Thuận Hòa, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên H. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 23 giờ 30 phút ngày 14/11/2017, Nguyễn Viết T đi bộ đến phường Hương Hồ, thị xã Hương T, tỉnh Thừa Thiên H tìm nhà dân có sơ hở để trộm cắp tài sản. Khi đến nhà bà Tôn Nữ Ngọc Chi ở tổ dân phố 5, phường Hương Hồ, T quan sát thấy cửa sổ nhà không đóng nên trèo cửa cổng vào nhà đi đến cửa sổ bên phải (hướng từ ngoài vào) phát hiện thấy trên giường ngủ cạnh cửa sổ có để 01 điện thoại di động hiệu Sony docomo Xperia và 01 điện thoại di động hiệu Blacbery Boid nên T thò tay vào lấy 02 điện thoại bỏ vào túi quần. Tiếp đến T đi đến cửa sổ bên trái nhìn thấy trên bàn cạnh cửa sổ có để 01 máy tính xách tay hiệu HP và 01 điện thoại di động Samsung Galaxy J7 prime. T lấy máy tính xách tay và điện thoại rồi đi ra ngoài. Đến 8 giờ ngày 15/11/2017, Nguyễn Viết T đem máy tính xách tay đến cửa hàng điện thoại di động Đại Nam ở phường Kim Long, thành phố Huế do chị Nguyễn Thị Nguyên Th làm chủ bán được 800.000đồng rồi tiêu xài cá nhân hết 300.000đồng, còn số tiền 500.000đồng và 03 điện thoại di động T cất giấu ở nhà thì bị Cơ quan công an phát hiện thu giữ.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 70 ngày 20/11/2017, Hội đồng định giá tài sản thị xã Hương T kết luận 01 máy tính xách tay nhãn hiệu HP Probooks 4540s có giá trị 2.400.000đồng, 01 điện thoại Samsung Galaxy J7 Prime có giá trị 4.666.500đồng, 01 điện thoại di động Sony Docomo Xperia có giá trị 200.000đồng, 01 điện thoại di động hiệu Blackberi Boid có giá trị 450.000đồng.

Tổng giá trị tài sản chiếm đoạt là 7.716.500đồng.

Vật chứng vụ án:

- 01 máy tính xách tay nhãn hiệu HP Probook 4540s màu đen;

- 01 điện thoại Samsung Galaxy J7 Prime;

- 01 điện thoại di động Sony Docomo Xperia;

- 01 điện thoại di động hiệu Blackberi Boid;

- Tiền Việt Nam 500.000đồng.

Ngày 27/3/2018 và ngày 19/6/2018, Cơ quan Điều tra đã xử lý vật chứng trả lại cho chủ sở hữu là bà Tôn Nữ Ngọc C 01 máy tính xách tay nhãn hiệu HP Probook 4540s màu đen, 01 điện thoại Samsung Galaxy J7 Prime, 01 điện thoại di động Sony Docomo Xperia, 01 điện thoại di động hiệu Blackberi Boid. Trả lại cho chị Nguyễn Thị Nguyên Th 500.000đồng.

Về dân sự: Bà Tôn Nữ Ngọc Ch và bà Nguyễn Thị Nguyên Th đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu bồi thường gì thêm.

Tại cơ quan điều tra, Nguyễn Viết T khai nhận với thủ đoạn tương tự trong khoảng thời gian từ tháng 6 đến tháng 11/2017 T còn 04 lần trộm cắp tài sản tại địa bàn các phường Hương An và phường Hương Hồ, thị xã Hương T, cụ thể:

Vụ thứ nhất:

Khoảng 23 giờ ngày 01/6/2017 Nguyễn Viết T đi bộ quanh phường Hương Hồ, thị xã Hương T tìm nhà dân có sơ hở để trộm cắp. Khi đi ngang nhà chị Nguyễn Thị Kim L ở tổ dân phố 1, T quan sát thấy cửa nhà không đóng nên đi vào phòng khách thì phát hiện thấy có 01 điện thoại di động hiệu Iphone 5s, 01 điện thoại di động Nokia Lumia 630 để giữa nên nhà nên lấy bỏ vào túi quần, tiếp đến T đi vào phòng ngủ thì thấy có 01 túi xách màu đen nên lấy túi xách đi ra ngoài lục tìm thấy bên trong có 500.000đồng nên lấy tiền rồi vứt túi xách lại. Sau khi lấy được tài sản T tiêu xài hết số tiền 500.000đồng còn 01 điện thoại di động hiệu Iphone 5s T đem bán cho anh Trần Viết T (Sinh ngày 01/01/1998, trú tại 6/8 Nguyễn Hữu Dật phường Hương Long, thành phố H) 01 điện thoại di động Nokia Lumia 630 T bán cho cửa hàng điện thoại ở đường Yết Kiêu, thành phố H (không xác định được người mua) để lấy tiền tiêu xài cá nhân.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 46 ngày 22/8/2017 Hội đồng định giá tài sản thị xã Hương T kết luận 01 điện thoại di động Iphone 5s có giá trị 1.557.400 đồng, 01 điện thoại di động hiệu Nokia Lumia 630 có giá trị 400.000đồng. Tổng cộng là 1.957.400đồng.

Như vậy tổng giá trị tài sản mà T chiếm đoạt là 2.457.400đồng.

Vật chứng thu giữ: 01 điện thoại di động hiệu Iphone 5s màu xám đen;

Đối với 01 điện thoại di động Nokia Lumia 630 do Nguyễn Viết T không nhớ bán cho ai và số tiền 500.000đồng T đã tiêu xài hết nên Cơ quan điều tra không thu giữ được.

Ngày 21/5/2018, Cơ quan điều tra đã xử lý vật chứng trả lại cho chủ sở hữu chị Nguyễn Thị Kim L 01 điện thoại di động hiệu Iphone 5s màu xám.

Về dân sự: Chị Nguyễn Thị Kim L đã nhận lại 01 điện thoại di động hiệu Iphone 5s màu xám, không yêu cầu bồi thường số tiền 500.000đồng và 01 điện thoại di động Nokia Lumia 630 đã mất.

Vụ thứ 2:

Khoảng 22 giờ ngày 22/6/2017 Nguyễn Viết T đi bộ đến phường Hương Hồ để trộm cắp tài sản, khi đến nhà bà Nguyễn Thị H ở Tổ dân phố 3, phường Hương H, T quan sát thấy cửa nhà không khóa nên đi vào phòng khách thì thấy có 01 điện thoại di động OPPO F1S màu vàng hồng, 01 ví da của chị Trần Thị Quỳnh Nh (con gái bà H), 01 máy tính xách tay nên lấy tài sản đi ra ngoài. T kiểm tra bên trong ví da có 90.000đồng nên lấy tiền rồi vứt ví lại, đối với 01 máy tính xách tay không khởi động được nên T đem bỏ lại chỗ cũ. Khoảng 15 giờ 30 phút ngày 26/6/2017, T đi xe đạp đến tìm gặp Võ Văn T (sinh ngày 31/8/2000 trú tại 54/28 Nguyễn Hoàng phường Hương Long, thành phố H) đưa cho T 01 điện thoại di động OPPO F1S rồi nói: “Mới được cái điện thoại” thì T hiểu là mới trộm cắp được. Sau đó Nguyễn Viết T nói Tiến đem máy đi phá khóa mật khẩu và bán thì T đồng ý. Võ Văn T lên mạng Facebook tìm người phá khóa mật khẩu với số tiền 200.000đồng, sau đó bán chiếc điện thoại cho Giả Văn C (Sinh năm 1994, tạm trú kiệt 100 Ngự Bình, phường An Cựu, thành phố H) với giá 2.300.000đồng. Đến 15 giờ ngày 26/4/2017, T hẹn gặp T ở phía trước nghĩa trang phường Hương Long, thành phố H, T nói với T bán điện thoại được 2.100.000đồng và tiền công mở khóa 500.000đồng. Nghe vậy T đưa cho T 500.000đồng tiền công mở khóa mật khẩu và cho thêm T 100.000đồng. Quá trình điều tra cơ quan Công an đã thu giữ số tiền trên.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 38 ngày 19/7/2017, Hội đồng định giá tài sản thị xã Hương T kết luận 01 điện thoại di động hiệu OPPO F1S (A1601) có giá trị 4.792.000đồng.

Như vậy tổng số tài sản chiếm đoạt là 4.882.000đồng.

Vật chứng vụ án:

- 01 điện thoại di động OPPO F1S màu vàng hồng;

- Tiền Việt Nam: 2.300.000đồng.

Đối với số tiền 90.000đồng T đã tiêu xài hết nên Cơ quan điều tra không thu giữ được.

Ngày 27/3/2018 và ngày 21/5/2018 Cơ quan điều tra đã xử lý vật chứng trả lại cho anh Giả Văn C số tiền 2.300.000đồng, trả lại cho chị Trần Thị Quỳnh Nh 01 điện thoại di động OPPO F1S.

Về dân sự: Chị Trần Thị Quỳnh Nh đã nhận lại 01 điện thoại di động OPPO F1S màu vàng hồng và không yêu cầu bồi thường số tiền 90.000đồng.

Vụ thứ 3:

Khoảng 02 giờ ngày 31/7/2017 Nguyễn Viết T đi bộ quanh địa bàn phường Hương An để tìm nhà dân có sơ hở. Khi đi ngang qua nhà ông Phan Văn Th ở Tổ dân phố An Hòa, phường Hương An, thị xã Hương T, T quan sát thấy nhà đang sửa chữa không đóng cửa nên đi vào phòng khách thì thấy chị Phan Thị Nh (con gái ông Th) đang nằm ngủ trên đầu để 01 điện thoại di động hiệu Iphone 5s (vỏ Iphone 5SE màu hồng) nên T lấy điện thoại, sau đó T tiếp tục đi vào phòng ngủ lấy trộm 01 điện thoại di động hiệu OPPO R1011 màu xanh, 01 điện thoại OPPO A37 màu vàng hồng của ông Th. Khoảng 6 giờ ngày 31/7/2018 T nhắn tin cho Trần Viết T với nội dung T lên xem điện thoại T mới trộm được để bán giúp T. Trần Viết T chạy lên nhà T xem 03 điện thoại di động rồi lấy điện thoại di động Iphone 5S đem đến cửa hàng điện thoại Quang D ở 102 Nguyễn Trãi, thành phố H bán cho Lê Đức A (sinh năm 1994 trú tại thôn 2, xã Vinh Hà, huyện Phú V, tỉnh Thừa Thiên H) với giá 400.000đồng nhưng T nói với T chỉ bán được 300.000đồng. Đến khoảng 10 giờ ngày 31/7/2017, Nguyễn Viết T đi xe đạp đến cửa hàng điện thoại ở 61 Yết Kiêu, phường Thuận H, thành phố H bán 01 điện thoại di động OPPO A37 cho Trần Thái L (sinh năm 1998, trú tại 6/130 Nguyễn Trãi, Thuận L, thành phố H) với giá 700.000đồng rồi tiêu xài cá nhân, 01 điện thoại di động OPPO R1011 T sử dụng để liên lạc thì bị Cơ quan công an thu giữ.

Tại bản kết luận định giá số 45 ngày 22/8/2017 Hội đồng định giá tài sản thị xã Hương T kết luận 01 điện thoại di động OPPO R1011 có giá trị 500.000đồng, 01 điện thoại di động Iphone 5s có giá 1.497.500đồng, 01 điện thoại di động OPPO A37 có giá trị 2.961.000đồng.

Tổng cộng là 4.958.500đồng.

Vật chứng thu giữ:

- 01 điện thoại di động Iphone 5s màu vàng (vỏ Iphone 5SE màu hồng);

- 01 điện thoại di động OPPO R1011

- 01 chiếc xe đạp mi ni loại nữ màu nâu, phía trước gắn 01 giỏ nhựa màu xám.

Đối với 01 điện thoại di động OPPO A 37 màu vàng hồng, anh Trần Thái L khai sau khi mua của Nguyễn Viết T đã bán lại cho 01 người không rõ lai lịch, tên tuổi, địa chỉ nên Cơ quan công an không thu giữ được.

Ngày 21/5/2018 Cơ quan điều tra đã xử lý vật chứng bằng hình thức trả lại 01 điện thoại di động OPPO R1011 và 01 điện thoại di động Iphone 5s màu vàng (vỏ Iphone 5SE màu hồng) cho chủ sở hữu ông Phan Văn Th, chị Phan Thị Nh.

Về dân sự: Ông Phan Văn Th yêu cầu bồi thường giá trị 01 điện thoại di động OPPO A37 qua định giá là 2.961.000đồng. Bị cáo T chưa bồi thường.

Vụ thứ 4:

Khoảng 01 giờ ngày 03/11/2017, Nguyễn Viết T đi bộ đến địa bàn phường Hương Hồ, thị xã Hương T để trộm cắp tài sản. Khi đến nhà ông Ngô Đình C ở tổ dân phố 3, phường Hương Hồ, T quan sát thấy của nhà chỉ khép hờ không khoá nên đi vào nhà thì thấy ông C đang nằm ngủ giữa nền nhà trên đầu để 01 điện thoại di động hiệu Iphone 4S màu trắng, 01 điện thoại di động hiệu Nokia Lumia 525 màu đỏ đen nên T đi đến lấy 02 chiếc điện thoại đem ra ngoài cất giấu sau đó tiếp tục đi vào nhà lục tìm tài sản thì bị ông C phát hiện bắt giữ cùng tang vật.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 69 ngày 17/11/2017 hội đồng định giá tài sản thị xã Hương T kết luận 01 điện thoại di động hiệu Iphone 4S có giá trị 600.000đồng, 01 điện thoại Nokia Lumia 525 có giá trị 250.000đồng. Tổng cộng là 850.000đồng.

Vật chứng thu giữ

- 01 điện thoại di động Iphone 4S màu trắng;

- 01 điện thoại di động Nokia Lumia màu đỏ đen.

Ngày 25/5/2018, Cơ quan cảnh sát điều tra công an thị xã Hương T đã xử lý vật chứng bằng hình thức trả lại cho chủ sở hữu ông Ngô Đình C 01 điện thoại di động Iphone 4s màu trắng và 01 điện thoại di động Nokia Lumia 525 màu đỏ đen.

Về dân sự: Ông Ngô Đình C đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu bồi thường gì.

Tại bản cáo trạng số 24/CT-VKSHT ngày 23/9/2018 Viện kiểm sát nhân dân thị xã Hương T đã truy tố bị cáo Nguyễn Viết T về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 và truy tố bị cáo Võ Văn T về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo khoản 1 Điều 250 của Bộ luật Hình sự năm 1999.

Tại phiên tòa, trong phần luận tội đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Hương T vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng thêm điểm p khoản 1, 2 Điều 46; Điểm g khoản 1 Điều 48; Điều 68, 69, 74 BLHS. Để xử phạt bị cáo T mức án từ: 18 đến 24 tháng tù.

Áp dụng điểm g, h, p khoản 1 Điều 46; Điều 68, 69, 73 BLHS. Xử phạt bị cáo Tiến mức án từ: 06 đến 09 tháng Cải tạo không giam giữ.

Tổng hợp hình phạt theo quy định.

Các trợ giúp viên trình bày lời bào chữa cho các bị cáo.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, lời khai của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Hương T, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Hương T, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự nên đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Viết T đã khai nhận:

Trong khoảng thời gian từ tháng 6/2017 đến tháng 11/2017, Nguyễn Viết T lợi dụng sơ hở trong quản lý tài sản của người dân tại địa bàn phường Hương Hồ và phường Hương An, thị xã Hương T, T đã nhiều lần trộm cắp tài sản, cụ thể:

Ngày 01/6/2017 trộm của chị Nguyễn Thị Kim L 01 điện thoại di động Iphone 5S có giá trị 1.557.400đồng, 01 điện thoại di động Nokia Lumia 630 có giá 400.000đồng và 500.000đồng, tổng cộng là 2.457.000đồng.

Ngày 22/6/2017 trộm của chị Trần Thị Quỳnh Nh 01 điện thoại di động OPPO F1S màu vàng hồng có giá trị 4.792.000, và 90.000đồng. Tổng số tài sản chiếm đoạt là 4.882.000đồng.

Ngày 31/7/2017 trộm của nhà ông Phan Văn Th và chị Phan Thị Nh (con gái ông Th) 01 điện thoại di động hiệu OPPO R1011 có giá 500.000đồng, 01 điện thoại OPPO A37 màu vàng hồng có giá trị 2.961.000đồng, 01 điện thoại di động Iphone 5S có giá 1.497.500 đồng. Tổng cộng là 4.958.500đồng.

Ngày 03/11/2017, trộm của ông Ngô Đình C 01 điện thoại di động hiệu Iphone 4S có giá trị 600.000đồng, 01 điện thoại Nokia Lumia 525 có giá trị 250.000đồng. Tổng cộng là 850.000đồng.

Ngày 14/11/2017, trộm của bà Tôn Nữ Ngọc Ch 01 máy tính xách tay nhãn hiệu HP Probooks 4540s có giá trị 2.400.000đồng, 01 điện thoại Samsung Galaxy J7 Prime có giá trị 4.666.500đồng, 01 điện thoại di động Sony Docomo Xperia có giá trị 200.000đồng, 01 điện thoại di động hiệu Blackberi Boid có giá trị 450.000đồng. Tổng giá trị tài sản chiếm đoạt là 7.716.500đồng.

Tổng giá trị tài sản mà bị cáo T chiếm đoạt là 20.864.400đồng (hai mươi triệu tám trăm sáu mươi bốn nghìn bốn trăm đồng).

[4] Tại phiên tòa bị cáo Văn Viết T khai nhận:

Khoảng 15 giờ 30 phút ngày 23/6/2017 T đến gặp T để nhờ T phá mật khẩu và bán 01 điện thoại di động hiệu OPPO F1S mà T đã trộm cắp được thì T đồng ý. T biết rõ đây là tài sản do T trộm cắp mà có nhưng vẫn đem đi phá mật khẩu và bán giúp cho T để hưởng lợi bất chính với số tiền là 4.792.000đồng.

[5] Như vậy lời khai của các bị cáo phù hợp với nội dung bản Cáo trạng, với lời khai của những người tham gia tố tụng khác và phù hợp với các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Vì vậy, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận bị cáo Nguyễn Viết T đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 và bị cáo Võ Văn T phạm vào tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo khoản 1 Điều 250 Bộ luật hình sự năm 1999.

[6] Xét tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội của bị cáo thấy rằng: Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, các bị cáo đã xâm phạm về quyền sở hữu tài sản của người khác, ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an trên địa bàn địa phương. Bị cáo T đã nhiều lần thực hiện hành vi phạm tội gây hoang mang, bức xúc trong cộng đồng dân cư.

[7] Xét nhân thân của các bị cáo thấy rằng:

Bị cáo Nguyễn Viết T có nhân thân xấu, ngoài hành vi phạm tội lần này thì bị cáo T đã nhiều lần bị các cơ quan có thẩm quyền xử phạt hành chính về hành vi trộm cắp tài sản, bị áp dụng biện pháp giáo dục tại phường Hương A; Bị Tòa án nhân dân thành phố H xử phạt 12 tháng tù chưa được xóa án tích nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học cho bản thân mà tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội, tuy nhiên tại thời điểm phạm tội bị cáo chưa đủ 18 tuổi do đó khi quyết định hình phạt cũng cần xem xét cho bị cáo.

Bị cáo Võ Văn T có nhân thân chưa có tiền án tiền sự, ngoài hành vi phạm tội lần này thì bị cáo chưa bị cơ quan có thẩm quyền nào xử lý về hành vi vi phạm gì.

[8] Xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ của các bị cáo thấy rằng:

Bị cáo Nguyễn Viết T đã bị Tòa án nhân dân thành phố H xử phạt 12 tháng tù theo bản án số 234/2017/HSST ngày 28/9/2017 chưa được xóa án tích mà tiếp tục phạm tội nên đã phạm vào tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là tái phạm và phạm tội nhiều lần quy định điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự 1999. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo T thành khẩn khai báo, đã tự thú về các hành vi phạm tội trước nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm o, p khoản 1 Điều 46, tại phiên tòa bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nên bị cáo được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự 1999. Cần thiết phải cách ly bị cáo T ra khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung.

Bị cáo Võ Văn T không phạm vào tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào mà được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là thành khẩn khai báo, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn quy định tại điểm g, h, p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự 1999. Xét bị cáo T có nhân thân tốt chưa có tiền án tiền sự, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng có nơi cư trú rõ ràng và có khả năng tự cải tạo nên không cần thiết phải cách ly ra khỏi đời sống xã hội mà áp dụng Điều 73 Bộ luật hình sự năm 1999, giao bị cáo cho chính quyền địa phương giám sát, giáo dục cũng đủ để răn đe và giáo dục và phòng ngừa chung. Do bị cáo phạm tội khi chưa đủ 18 tuổi, vì vậy cần miễn khấu trừ thu nhập cho bị cáo.

[9] Trong vụ án này Trần Viết T biết Nguyễn Viết T trộm cắp tài sản nhưng vẫn mua 01 điện thoại di động hiệu Iphone 5S màu xám giá trị 1.557.400đồng vào ngày 01/06/2017; bán giúp cho T 01 điện thoại di động hiệu Iphone 5S màu vàng (vỏ Iphone 5SE màu hồng) có giá trị 1.497.500đồng vào ngày 31/7/2017. Tuy nhiên tài sản các lần chiếm đoạt chưa đủ tang số để truy cứu trách nhiệm hình sự, Trần Viết T chưa bị xử lý hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản nên cơ quan điều tra không truy tố Trần Viết T là có căn cứ.

Anh Giả Văn C, Lê Đức A, Trần Thái L, chị Nguyễn Thị Nguyên Th có mua điện thoại và máy tính xách tay của Nguyễn Viết T, Trần Viết T, Văn Viết T đem bán nhưng không biết tài sản này là do chiếm đoạt của người khác mà có nên không phạm tội.

Bà Nguyễn Thị X là chủ sở hữu chiếc xe đạp mà Nguyễn Viết T sử dụng vào mục đích chiếm đoạt tài sản nhưng bà X không biết nên không xử lý là có căn cứ.

[12] Về trách nhiệm dân sự: Anh Nguyễn Văn Th yêu cầu bị cáo T phải bồi thường giá trị 01 điện thoại di động OPPO A37 giá trị 2.961.000đồng là có căn cứ cần chấp nhận.

[13] Về án phí: Buộc mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm; bị cáo Nguyễn Viết T phải chịu thêm 300.000đ án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Tuyên bố bị cáo Nguyễn Viết T phạm tội “Trộm cắp tài sản”; bị cáo Võ Văn T phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”;

- Áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm o, p khoản 1, khoản 2 Điều 46, điểm g khoản 1 Điều 48; Điều 68, 69, 74 Bộ luật Hình sự 1999;

Xử phạt bị cáo Nguyễn Viết T: 01 năm 06 tháng tù.

Thời gian thụ hình tính từ ngày bắt giam chấp hành án đối với bản án này.

- Áp dụng khoản 1 Điều 250; điểm g, h, p khoản 1 Điều 46, Điều 68, 69, 73 Bộ luật Hình sự 1999;

Xử phạt bị cáo Võ Văn T: 06 tháng Cải tạo không giam giữ.

Thời hạn Cải tạo không giam giữ được tính từ ngày cơ quan, tổ chức được giao giám sát, giáo dục người bị kết án nhận được Quyết định thi hành án và bản sao bản án.

Giao bị cáo Võ Văn T cho Ủy ban nhân dân phường Hương Long, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên H giám sát, giáo dục. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.

Trường hợp bị cáo Võ Văn T thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 Luật thi hành án hình sự.

- Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 584 và Điều 589 của Bộ luật Dân sự, tuyên xử: Buộc bị cáo Nguyễn Viết T phải bồi thường cho anh Phan Văn Th số tiền 2.961.000đồng.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự 2015.

Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

- Về án phí: Buộc bị cáo Nguyễn Viết T phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm. Bị cáo Võ Văn T phải chịu 200.000đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử sơ thẩm công khai báo cho bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

276
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 18/2018/HS-ST ngày 07/11/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:18/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Hương Thủy - Thừa Thiên Huế
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về