Bản án 18/2018/HNGĐ-ST ngày 07/02/2018 về tranh chấp hôn nhân gia đình

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CẨM KHÊ, TỈNH PHÚ THỌ

BẢN ÁN 18/2018/HNGĐ-ST NGÀY 07/02/2018 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN GIA ĐÌNH

Ngày 07 tháng 02 năm 2018, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Cẩm Khê - tỉnh Phú Thọ, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 232/2017/TLST-HNGĐ ngày 14/12/2017, về việc: “Tranh chấp hôn nhân và gia đình", theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 11/2017/QĐST-HNGĐ ngày 23/01/2018, giữa các đương sự:

1- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Phương L - sinh năm: 1980; cư trú tại: Khu 10, xã S, huyện C, tỉnh Phú Thọ .Có mặt.

2- Bị đơn: Anh Vưu Trường L -  sinh năm: 1980; cư trú tại: Ấp T, xã M, Thành phố M, tỉnh Tiền Giang. Vắng mặt, nhưng có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 01/12/2017 và trong quá trình giải quyết, xét xử nguyên đơn là chị Nguyễn Thị Phương L trình bày: Chị và anh Vưu Trường L tự nguyện kết hôn với nhau ngày 14/11/2002, có đăng ký kết hôn tại UBND xã M, Thành phố M, tỉnh Tiền Giang. Sau khi kết hôn, vợ chồng cùng nhau đi làm thuê tại xã T, quân B, TP Hồ Chí Minh. Quá trình chung sống tình cảm vợ chồng hoà thuận, hạnh phúc đến khoảng cuối năm 2005 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, lối sống. Tuy đã được gia đình nhiều lần khuyên giải nhưng không đạt kết quả. Từ cuối tháng 6/2013 đến nay, do mâu thuẫn nên chị L về ở cùng bố mẹ đẻ tại xã S, huyện C, tỉnh Phú Thọ, vợ chồng sống ly thân, mỗi người ở một nơi, không ai quan tâm đến ai. Nay xác định tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Cẩm Khê giải quyết cho chị được ly hôn anh Vưu Trường L.

Tại bản tự khai ngày 15/01/2018, bị đơn là anh Vưu Trường L trình bày: Chị L trình bày về thời gian kết hôn, quá trình chung sống, thời gian vợ chồng sống ly thân như trên là đúng. Nay chị L yêu cầu ly hôn, anh L cũng đồng ý.

Về con chung: Hai bên trình bày vợ chồng có 01 con chung là Vưu Phương Q - sinh ngày 09/11/2004, hiện đang ở với chị L. Ly hôn, hai bên thống nhất là chị L trực tiếp nuôi dưỡng con chung và anh L không phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nghĩa vụ chung về tài sản, công sức: Hai bên trình bày không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa, nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện; Kiểm sát viên phát biểu ý kiến và xác định:

Về tố tụng dân sự: việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án, đều thực hiện đúng quy định pháp luật.

Về giải quyết vụ án: Đề nghị HĐXX căn cứ vào các Điều 55; Điều 58; Điều 81; Điều 82; Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; Khoản 1 Điều 228; Khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điểm a Khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án và Điều 26 Luật thi hành án dân sự,

Xử:

- Về quan hệ hôn nhân: Công nhận sự thuận tình ly hôn giữa chị Nguyễn Thị Phương L và anh Vưu Trường L.

- Về con chung: Công nhận sự thỏa thuận của các đương sự là chị L trực tiếp nuôi dưỡng con chung là Vưu Phương Q - sinh ngày 09/11/2004, anh L không phải cấp dưỡng nuôi con.

- Về án phí:  Chị Nguyễn Thị Phương L phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả hỏi tại phiên toà, trên cơ sở xem xét, đánh giá đầy đủ và toàn diện chứng cứ, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về quan hệ hôn nhân: Hôn nhân giữa chị Nguyễn Thị Phương L và anh Vưu Trường L đảm bảo các quy định về điều kiện kết hôn và không thuộc trường hợp cấm kết hôn theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình, nên đó là hôn nhân hợp pháp. Kết quả thu thập chứng cứ và lời trình bày của các đương sự cho thấy, mâu thuẫn vợ chồng phát sinh từ khoảng năm 2005. Nguyên nhân là do vợ chồng không hợp nhau về quan điểm sống, lối sống. Từ tháng 6/2013 đến nay, vợ chồng sống ly thân, mỗi người ở một nơi, không ai quan tâm đến nhau. Điều này chứng tỏ tình cảm vợ chồng trong thực tế không còn, mâu thuẫn của vợ chồng đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, nên hai bên thuận tình ly hôn là có căn cứ, cần chấp nhận.

[2]. Về con chung: Sự thỏa thuận của các đương sự về con chung phù hợp với nguyện vọng của con chung và đảm bảo được ổn định sự phát triển của con chung, cần chấp nhận. Về cấp dưỡng nuôi con chung, do chị L không yêu cầu, nên không đề cập giải quyết.

[3]. Về tài sản chung, nghĩa vụ chung về tài sản, công sức: Do các đương sự không yêu cầu, nên không đề cập giải quyết.

[4]. Về án phí: Chị Nguyễn Thị Phương L phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về việc ly hôn theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Điều 55; Điều 58; Khoản 1, 2 Điều 81; Khoản 1, 3 Điều 82; Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; Khoản 4 Điều 147; Khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điểm a Khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;  Điều 26 của Luật thi hành án dân sự;

Xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Công nhận sự thuận tình ly hôn giữa chị Nguyễn Thị Phương L và anh Vưu Trường L.

2. Về con chung: Công nhận sự thỏa thuận của các đương sự như sau:

2.1. Chị Nguyễn Thị Phương L trực tiếp nuôi dưỡng con chung là Vưu Phương Qn - sinh ngày 09/11/2004, kể từ tháng 02/2018 đến khi con chung thành niên (đủ 18 tuổi).

2.2. Anh Vưu Trường L không phải cấp dưỡng nuôi con, vì chị Nguyễn Thị Phương L không yêu cầu.

2.3. Anh Vưu Trường L có quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung, không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Nguyễn Thị Phương L phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về việc ly hôn. Nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng ) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0002726 ngày 14/12/2017 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Cẩm Khê. Chị L đã nộp đủ tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, nguyên đơn có mặt được quyền kháng cáo lên Toà án nhân dân tỉnh Phú Thọ để yêu cầu xét xử phúc thẩm. Bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được giao cho bị đơn hoặc được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

272
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 18/2018/HNGĐ-ST ngày 07/02/2018 về tranh chấp hôn nhân gia đình

Số hiệu:18/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cẩm Khê - Phú Thọ
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 07/02/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về