Bản án 181/2019/HNGĐ-ST ngày 21/10/2019 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ MỸ THO, TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 181/2019/HNGĐ-ST NGÀY 21/10/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 21 tháng 10 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 483/2019/TLST-HNGĐ ngày 09 tháng 7 năm 2019 về tranh chấp “Ly hôn”. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 173/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 20 tháng 9 năm 2019 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Phạm Thị Diễm T, sinh năm 1985.

Đa chỉ: Số H, đường Đ, phường B, thành phố M, tỉnh Tiền Giang (có mặt)

Bị đơn: Ông Dương Thanh H, sinh năm 1983.

Đa chỉ: Số S, đường T, phường N, thành phố M, tỉnh Tiền Giang (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn chị Phạm Thị Diễm T trình bày:

Chị và anh Dương Thanh H làm lễ cưới năm 2005, có làm thủ tục đăng ký kết hôn và được UBND phường B cấp giấy kết hôn số 95 ngày 11/10/2005. Thời gian đầu vợ chồng sống hạnh phúc đến năm 2015 thì phát sinh mẫu thuẫn, đỉnh điểm là anh H đã dung dao bấm đâm chị gây thương tích và điều trị tại bệnh viện đa khoa tỉnh Tiền Giang, phải mổ 02 lần mới khắc phục được thương tích. Sau vụ việc trên, phía anh H vẫn không thay đổi nên chị đã ly thân từ năm 2015 đến nay. Nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị yêu cầu:

- Về hôn nhân: Chị yêu cầu được ly hôn với anh H;

- Về con chung: Có 02 con chung, tên Dương Phạm Thanh T, sinh ngày 06/11/2005 và Dương Phạm Thanh H, sinh ngày 21/11/2011. Khi ly hôn chị yêu cầu cho chị được trực tiếp nuôi dưỡng cháu H, cho anh H trực tiếp nuôi dưỡng cháu T. Cả hai không thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng. Tuy nhiên, nếu cháu T có nguyện vọng muốn chị trực tiếp nuôi dưỡng cháu, thì chị đồng ý. Chị yêu cầu Tòa án cho chị được trực tiếp chăm sóc và nuôi dưỡng 02 con chung, không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn anh Dương Thanh H đã được toà án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng theo đúng quy định pháp luật nhưng vẫn không có ý kiến gì và không có mặt để dự phiên toà mà không có lý chính đáng.

* Tại phiên tòa:

Chị Phạm Thị Diễm T vẫn giữ nguyên nội dung trình bày là yêu cầu ly hôn và đồng ý nuôi 02 con chung không yêu cầu anh H cấp dưỡng, về tài sản và nợ chung: không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Thư ký tòa án, Hội đồng xét xử và các đương sự từ khi thụ lý vụ án cho đến thời điểm Hội đồng xét xử chuẩn bị nghị án đều đúng theo trình tự do Bộ luật tố tụng quy định.

Về quan điểm giải quyết vụ án: Đại diện Viện kiểm sát cho rằng yêu cầu khởi kiện của chị T là có căn cứ. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị T; Về con chung giao 02 con chung cho chị T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, anh H không có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con, do chị T không yêu cầu; Về tài sản chung, nợ chung không yêu cầu Tòa án giải quyết nên đề nghị Hội đồng xét xử ghi nhận.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi thẩm tra xem xét các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, nghe lời trình bày của đương sự, ý kiến đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Chị Phạm Thị Diễm T với anh Dương Thanh H kết hôn trên cơ sở tự nguyện. Được Ủy ban nhân dân phường B cấp giấy chứng nhận kết hôn số 95 ngày 11/10/2005. Ngày 08/7/2019 chị T khởi kiện yêu cầu được ly hôn với anh H, đây là tranh chấp ly hôn được quy định tại Điều 51 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Hình thức và nội dung đơn khởi kiện đúng quy định tại Điều 189 Bộ luật tố tụng dân sự. Anh Dương Thanh H, thường trú tại địa chỉ Số S, đường T, phường N, thành phố M, tỉnh Tiền , theo quy định tại khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, điểm a Khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Mỹ Tho.

Bị đơn anh Dương Thanh H vắng mặt. Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt anh H theo quy định tại khoản 2 Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Về chứng cứ chứng minh: Xét thấy, anh H đã được Tòa án tống đạt hợp lệ văn bản tố tụng, thông báo về kết quả hòa giải và công khai các chứng cứ, nhưng không có ý kiến gì về các chứng cứ và yêu cầu khởi kiện của chị T. Tại biên bản xác minh ngày 22/7/2019, phía UBND phường N không nắm được nguyên nhân mâu thuẫn giữa vợ chồng chị T và anh H. Nên căn cứ theo quy định tại khoản 4 Điều 91 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 có thể khẳng định về chứng cứ bao gồm những lời khai mà chị T trình bày là tình tiết không phải chứng minh.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Chị Phạm Thị Diễm T và anh Dương Thanh H kết hôn theo đúng quy định pháp luật, xác định hôn nhân của chị chị T và anh H là hôn nhân hợp pháp. Theo lời khai của chị T trình bày: Thời gian đầu vợ chồng sống hạnh phúc đến năm 2015 thì phát sinh mẫu thuẫn, đỉnh điểm là anh H đã gây thương tích cho chị, phải điều trị tại bệnh viện đa khoa tỉnh. Sau vụ việc trên, phía anh H vẫn không thay đổi nên chị đã ly thân từ năm 2015 đến nay. Nhận thấy tình cảm không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị T yêu cầu ly hôn với anh H.

Do chị T và anh H thời gian ly thân đã lâu nhưng không hàn gắn được tình cảm, tại phiên tòa chị T vẫn cương quyết ly hôn với anh H, cho thấy đời sống vợ chồng giữa chị T và anh H đã mâu thuẩn trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị T theo quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

[3]Về con chung: Trong thời kỳ hôn nhân anh chị có 02 con chung tên Dương Phạm Thanh T, sinh năm 2005 và Dương Phạm Thanh H, sinh năm 2011. Hiện cháu T đang sống chung với anh H, cháu H hiện đang sống chung với chị T. Phía cháu T trình bày nếu cha mẹ ly hôn thì cháu có nguyện vọng muốn sống chung với chị T. Phía chị T đồng ý nuôi dưỡng 02 con chung và không yêu cầu anh H cấp dưỡng. Do cháu T đã trên 07 tuổi nên cần tôn trọng nguyện vọng của cháu. Phía anh H từ khi chị T khởi kiện đến nay, vẫn không có ý kiến gì về con chung. Do đó, cần xem xét giao 02 con chung cho chị T nuôi dưỡng, anh H không có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con, là phù hợp.

[4] Về tài sản chung, nợ chung: Do chị T trình bày không có tài sản và nợ chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Nên Hội đồng xét xử ghi nhận và không xem xét giải quyết.

[6] Đề nghị của Đại diện viện kiểm sát nhân dân thành phố Mỹ Tho phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[7] Về án phí: Chị T phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 28, 35, 39, 147, 227, 228, 271, 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ các Điều 51, 56, 81, 84, 131 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.

Xử:

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của chị Phạm Thị Diễm T

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Phạm Thị Diễn T được ly hôn với anh Dương Văn H

- Về con chung: Giao 02 con chung là Dương Phạm Thanh T, sinh ngày 06/11/2005 và Dương Phạm Thanh H, sinh ngày 21/11/2011, cho chị Phạm Thị Diễm T nuôi dưỡng, đến khi 02 con chung đủ 18 tuổi và lao động được. Anh Dương Thanh H không có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên. Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, cơ quan, tổ chức được quy định tại khoản 5 Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi người trực tiếp nuôi con.

- Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

2. Về án phí: Chị Phạm Thị Diễm T phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân sơ thẩm. Chị T đã nộp 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0000074 ngày 09/7/2019 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Mỹ Tho, nên xem như đã nộp xong án phí.

3. Về quyền kháng cáo: Chị Phạm Thị Diễm T có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, anh Dương Thanh H có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

197
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 181/2019/HNGĐ-ST ngày 21/10/2019 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:181/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Mỹ Tho - Tiền Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 21/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về