Bản án 181/2018/HNGĐ-ST ngày 26/11/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUỶ NGUYÊN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 181/2018/HNGĐ-ST NGÀY 26/11/2018 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 26 tháng 11 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 617/2018/TLST-HNGĐ ngày 29 tháng 8 năm 2018 về việc ly hôn, tranh chấp vềnuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 220/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày24 tháng 10 năm 2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số 153/2018/QĐST-HNGĐ ngày 09 tháng 11 năm 2018, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Anh Phạm Văn N ; địa chỉ: Thôn 2, xã T, huyện T, thành phố Hải Phòng; có mặt.

Bị đơn: Chị Nguyễn Thị H ; địa chỉ: Thôn 9, xã C, huyện T, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện và các lời khai tại Tòa án, nguyên đơn là anh Phạm Văn N trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Anh N và chị Nguyễn Thị H kết hôn với nhau vào năm 2016 trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T , huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng (Giấy chứng nhận kết hôn số 33/2016 ngày 31 tháng 5 năm 2016). Sau khi cưới, vợ chồng về sinh sống cùng với gia đình anh N tại xã T, huyện T, thành phố Hải Phòng. Quá trình chung sống hòa thuận đến khoảng tháng 4 năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do tính tình vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm sống. Anh N xác định tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, hôn nhân không có hạnh phúc nên anh đề nghị Tòa án giải quyết được ly hôn chị Nguyễn Thị H .

- Về con chung: Anh N và chị H có một con chung tên Phạm Văn T , sinh ngày 16 tháng 01 năm 2017 . Hiện nay hai con chung đang sống cùng với anh N . Khi ly hôn anh N đề nghị được tiếp tục nuôi con. Nếu Tòa án quyết định chị H nuôi con, anh cũng đồng ý. Về cấp dưỡng nuôi con chung để hai bên tự thỏa thuận giao nhận với nhau, anh N không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về tài sản chung: Anh N trình bầy vợ chồng không có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn chị Nguyễn Thị H mặc dù được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng không đến Tòa án để trình bầy quan điểm về việc anh Phạm Văn N có đơn xin ly hôn và không có ý kiến gì về việc nuôi con chung.

Kiểm sát viên phát biểu ý kiến trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án thì những người tiến hành tố tụng đã tuân theo đúng pháp luật tố tụng, nguyên đơn chấp hành đúng pháp luật; bị đơn chưa chấp hành đúng quy định pháp luật về dân sự. Tòa án đã xác định đúng thẩm quyền giải quyền vụ án, xác định đúng quan hệ pháp luật và những người tham gia tố tụng. Về việc giải quyết vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 51, 56, 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình; Nghị quyết 326 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội; chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của nguyên đơn, giao con cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng. Nguyên đơn phải chịu án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Lời khai của anh Phạm Văn N tại Tòa án phù hợp với bản sao giấy đăng ký kết hôn, bản sao giấy khai sinh của con chung mà anh Nguyên đã giao nộp cho Tòa án, phù hợp với các tài liệu xác minh. Tài liệu xác minh tại địa phương thể hiện vợ chồng có mâu thuẫn khoảng từ đầu năm 2018. Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm sống, mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, khó có khả năng đoàn tụ. Anh N và chị H đều có khả năng nuôi con. Tòa án kết hợp cùng với địa phương vào nhà làm việc cùng với chị Nguyễn Thị H nhưng chị H không đóng cửa không gặp.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Về tố tụng: Bị đơn là chị Nguyễn Thị H cư trú tại xã C, huyện T , thành phố Hải Phòng; chị H vắng mặt lần thứ hai tại phiên tòa. Căn cứ Điều 35, 39 Bộ luật Tố tụng dân sự Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên có thẩm quyền xét xử vụ án này. Căn cứ Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.

[2]. Về hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa anh N và chị H đã được xác lập là hợp pháp (Giấy chứng nhận kết hôn số 33/2016 ngày 31 tháng 5 năm 2016 tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện T, thành phố Hải Phòng). Căn cứ vào lời khai của các đương sự, tài liệu điều tra xác minh đã xác định được mâu thuẫn vợ chồng có tồn tại làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Do đó, căn cứ vào Điều 51, Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình xử cho anh N được ly hôn chị H .

[3]. Về con chung: Anh N và chị H có một con chung là Phạm Văn T, sinh ngày 16 tháng 01 năm 2017. Khi ly hôn anh N đề nghị được nuôi con. Việc giao con chung cho ai nuôi cần phải căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con. Căn cứ vào tài liệu điều tra xác minh thể hiện anh N và chị H đều có khả năng nuôi con, tuy nhiên hiện nay con chung dưới 36 tháng tuổi nên giao con cho chị Hòa trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với các Điều 81, 82 và 83 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[4]. Về cấp dưỡng nuôi con chung: Anh N đề nghị tự thỏa thuận giao nhận cho nhau, không đề nghị Tòa án giải quyết.

[5]. Về tài sản chung: Anh N không đề nghị Tòa án giải quyết tài sản, mặt khác chưa có lời khai của chị H về tài sản chung nên Hội đồng xét xử không giải quyết trong vụ án này.

[6]. Về án phí: Anh N phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí ; Xử:

1. Về hôn nhân: Anh Phạm Văn N được ly hôn chị Nguyễn Thị H .

2. Về con chung: Giao cho chị Nguyễn Thị H trực tiếp nuôi dưỡng con chung là Phạm Văn T , sinh ngày 16 tháng 01 năm 2017 cho đến khi con đủ mười tám tuổi và có khả năng lao động hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về án phí: Anh Phạm Văn N phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn, được trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0009351 ngày 29 tháng 8 năm 2018 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng. Anh N đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

4. Nguyên đơn có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

5. Trường hợp quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

227
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 181/2018/HNGĐ-ST ngày 26/11/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:181/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về