Bản án 180/2021/HNGĐ-ST ngày 02/03/2021 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN GÒ VẤP – THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 180/2021/HNGĐ-ST NGÀY 02/03/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 02 tháng 3 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, xét xử sơ thẩm công khai, vụ án dân sự thụ lý số: 1353/2020/TLST-HNGĐ, ngày 27 tháng 10 năm 2020 về tranh chấp “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 12/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 14 tháng 01 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 26/2021/QĐST-DS ngày 03 tháng 02 năm 2021.

Nguyên đơn: bà Trần Hoài L, sinh năm 1992; địa chỉ:, Phường M, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh, (có mặt).

Bị đơn: ông Bùi Hữu P, sinh năm 1983; địa chỉ:, Phường M, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh, (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 26 tháng 10 năm 2020, bản tự khai, qua các lần làm việc tại Tòa án và tại phiên tòa, nguyên đơn là bà Trần Hoài L trình bày: bà Trần Hoài L với ông Bùi Hữu P có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân Phường M, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh theo Giấy chứng nhận kết hôn số: 03 quyển số: 01/2013 ngày 18 tháng 01 năm 2013. Trong quá trình chung sống, vợ chồng có mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, thường xuyên cãi nhau, không quan tâm đến nhau, mục đích hôn nhân không đạt được, đã ly thân từ năm 2016 đến nay. Nay nhận thấy không thể khắc phục được mâu thuẫn vợ chồng, tình cảm vợ chồng không còn, đời sống chung của vợ chồng không có hạnh phúc nên bà L yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với ông P để ổn định cuộc sống. Bà L và ông P có 01 con chung tên là Bùi An N, sinh ngày 13 tháng 02 năm 2014 nếu ly hôn thì bà L xin được trực tiếp nuôi dưỡng từ ngày ly hôn cho đến khi con chung trưởng thành. Trong thời gian chuẩn bị xét xử bà L yêu cầu ông P cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 3.000.000 đ (ba triệu đồng) từ ngày ly hôn cho đến khi con đủ 18 tuổi, nhưng tại phiên tòa bà L không yêu cầu ông P cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung: bà L không yêu cầu Tòa án giải quyết trong vụ án này. Về nợ chung: bà L không yêu cầu Tòa án giải quyết trong vụ án này.

Ông Bùi Hữu P trình bày: Về quan hệ kết hôn, con chung đúng như bà L trình bày, nay bà L có đơn xin ly hôn, ông P nhận thấy tình cảm vợ chồng vẫn còn, nên ông P không đồng ý ly hôn. Trong trường hợp bà L vẫn giữ yêu cầu ly hôn, nếu phải giải quyết ly hôn thì ông P xin được giải quyết như sau: Về con chung: Ông P xin được trực tiếp nuôi dưỡng con chung từ ngày ly hôn cho đến khi con chung trưởng thành, ông P không yêu cầu bà L cấp dưỡng nuôi con. Nếu bà L được nuôi con sau khi ly hôn thì ông P tự nguyện cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 3.000.000 đ (ba triệu đồng) từ ngày ly hôn cho đến khi con đủ 18 tuổi. Về tài sản chung, nợ chung: ông P không yêu cầu Tòa án giải quyết trong vụ án này.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến: Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa hôm nay, Tòa án đã thực hiện đúng, đầy đủ trình tự, thủ tục tố tụng theo qui định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Các đương sự thực hiện đúng quy định tại các Điều 70, Điều 71 Bộ luật tố tụng dân sự.

Đối với yêu cầu của nguyên đơn xin được giải quyết ly hôn theo nội dung đã trình bày là có cơ sở, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, giải quyết cho bà L được ly hôn với ông P. Giao con chung là Bùi An N cho bà L trực tiếp nuôi dưỡng sau khi ly hôn, ông P cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 3.000.000 đ (ba triệu đồng) từ ngày ly hôn cho đến khi con đủ 18 tuổi. Về tài sản chung, nợ chung: đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết trong vụ án này.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả làm việc tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[2] Về tố tụng:

[3] Căn cứ Giấy chứng nhận kết hôn số: 03 quyển số: 01/2013 ngày 18 tháng 01 năm 2013 do Ủy ban nhân dân Phường M, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh cấp cho bà Trần Hoài L và ông Bùi Hữu P đã xác định quan hệ hôn nhân giữa bà L và ông P là quan hệ hôn nhân hợp pháp được điều chỉnh bởi Luật hôn nhân và gia đình.

[4] Yêu cầu xin ly hôn của bà L đối với ông P là quan hệ tranh chấp về hôn nhân gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết sơ thẩm của Tòa án nhân dân quận Gò Vấp theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[5] Về nội dung:

[6] Đối với yêu cầu ly hôn của bà L thì Hội đồng xét xử nhận thấy:

[7] Bà L yêu cầu Toà án giải quyết cho ly hôn, theo nguyên nhân chủ yếu là do vợ chồng không còn tình cảm, có mâu thuẫn trầm trọng, hiện nay vợ chồng không còn chung sống. Ông P không chấp nhận giải quyết ly hôn với bà L do vẫn còn tình cảm thương yêu bà L. Nhưng xét thấy việc vun đắp hạnh phúc vợ chồng phải là sự hòa thuận của bà L và ông P, nhưng bà L cương quyết xin được ly hôn vì không thể chung sống cùng ông P, thực tế vợ chồng đã ly thân từ năm 2016 đến nay. Hội đồng xét xử nhận thấy việc bà L trở lại chung sống cùng ông P là rất gượng ép, khó có thể thực hiện được, căn cứ Điều 51, Điều 56 Luật hôn nhân gia đình năm 2014, Hội dồng xét xử thấy nên chấp nhận yêu cầu giải quyết ly hôn của bà L.

[8] Bà L và ông P có một con chung là Bùi An N, sinh ngày 13 tháng 02 năm 2014, bà L xin được nuôi con sau khi ly hôn, Tòa án đã xác minh hiện bà L vẫn đang trực tiếp nuôi dưỡng con chung, ông P cũng thừa nhận bà L nuôi dưỡng cháu N rất tốt. Hội đồng xét xử thấy rằng để sinh hoạt và học tập của cháu N được ổn định thì việc bà L tiếp tục nuôi con chung là hợp lý, nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu trực tiếp nuôi con của nguyên đơn. Ông P tự nguyện cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 3.000.000 đ (ba triệu đồng) từ ngày ly hôn cho đến khi con đủ 18 tuổi, xét việc tự nguyện cấp dưỡng này là chính đáng, đảm bảo quyền lợi của cháu N và phù hợp với giá sinh hoạt hiện nay nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[9] Từ những nhận định trên nên Hội đồng xét xử không chấp nhận ý kiến của bị đơn là không đồng ý ly hôn và xin được nuôi con chung nếu phải ly hôn.

[10] Do đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản chung, nợ chung trong vụ án này nên Hội đồng xét xử không xét.

[11] Từ những nhận định như trên Hội đồng xét xử thống nhất giải quyết cho bà L được ly hôn với ông P, cụ thể như sau:

[12] Về quan hệ hôn nhân: bà L được ly hôn với ông P.

[13] Về con chung: bà L được trực tiếp nuôi con chung là Bùi An N, sinh ngày 13 tháng 02 năm 2014 sau khi ly hôn, ông P phải cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 3.000.000 đ (ba triệu đồng) từ ngày ly hôn cho đến khi con đủ 18 tuổi.

[14] Về tài sản chung, nợ chung: đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết trong vụ án này.

[15] Bà L phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm là 300.000 đ (ba trăm ngàn đồng), ông P phải chịu án phí cấp dưỡng nuôi con là 300.000 đ (ba trăm ngàn đồng) theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 150, Điều 266, Điều 271, Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự.

- Căn cứ vào Điều 56, Điều 59, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

- Căn cứ vào Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn:

Bà Trần Hoài L được ly hôn với ông Bùi Hữu P.

Giấy chứng nhận kết hôn số: 03 quyển số: 01/2013 ngày 18 tháng 01 năm 2013 do Ủy ban nhân dân Phường M, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh cấp cho bà Trần Hoài L và ông Bùi Hữu P hết hiệu lực kể từ ngày bản án có hiệu lực.

- Về con chung: bà Trần Mỹ L và ông Bùi Hữu P có 01 con chung tên là Bùi An N, sinh ngày 13 tháng 02 năm 2014, bà L trực tiếp nuôi dưỡng từ ngày ly hôn cho đến khi con chung trưởng thành, ông P cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 3.000.000 đ (ba triệu đồng) từ ngày ly hôn cho đến khi con đủ 18 tuổi.

Kể từ khi người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu người phải thi hành án chưa trả số tiền nêu trên thì hàng tháng người phải thi hành án còn phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả, lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015.

Ông P được quyền thăm nom, chăm sóc và giáo dục con chung, không ai được cản trở quyền này của ông P. Nếu ông P lạm dụng việc thăm nom con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì bà L có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm con của ông P.

Vì quyền lợi mọi mặt của con chung, khi cần thiết có thể thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc mức cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết trong vụ án này.

2. Án phí hôn nhân sơ thẩm là 300.000 đ (ba trăm ngàn đồng) bà Trần Mỹ L phải chịu, nhưng được trừ vào số tiền 300.000 đ (ba trăm ngàn đồng) bà L đã tạm nộp án phí theo biên lai số: AA/2019/0027215 ngày 27 tháng 10 năm 2020 của Chi cục thi hành án dân sự quận Gò Vấp. Bà L đã nộp đủ án phí.

Ông Bùi Hữu P phải chịu án phí cấp dưỡng nuôi con là 300.000 đ (ba trăm ngàn đồng).

3. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo các quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

4. Thi hành tại Cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền.

5. Đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

186
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 180/2021/HNGĐ-ST ngày 02/03/2021 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:180/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Gò Vấp - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 02/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về