Bản án 180/2020/HS-ST ngày 13/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN GÒ VẤP, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 180/2020/HS-ST NGÀY 13/11/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 13 tháng 11 năm 2020 tại Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số:192/2020/TLST-HS ngày 29 tháng 10 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 205/2020/QĐXXST-HS ngày 30 tháng 10 năm 2020 đối với bị cáo:

- Bùi Thanh V, sinh năm: 1993, tại: Thành phố Hồ Chí Minh; Hộ khẩu thường trú: đường T, Phường S, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh; Chổ ở: đường D, Phường K, quận G, Tp. Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Sữa điện lạnh; trình độ văn hóa: 8/12; dân tộc:Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Bùi Thế Tr và bà Vũ Thị Kim N; Chưa có vợ; tiền án: - Ngày 30/5/2011, Toà Phúc thẩm toà án nhân dân Tp. Hồ Chí Minh xử phạt 02 năm tù về tội “Cướp giật tài sản” (Bản án số 328/2011/HSPT); - Ngày 30/6/2011, Toà án nhân dân quận Bình Thạnh xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản”. Tổng hợp hình phạt của Bùi Thanh V là 04 năm 06 tháng tù (Bản án số 141/2011); - Ngày 18/12/2015, Toà án nhân dân quận Gò Vấp xử phạt 04 năm tù giam về tội “Cướp giật tài sản” (Bản án số 282/2015/HSST); tiền sự: không; bị b t tạm giam ngày: 22/5/2020; (Có mặt).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Bà Bùi Ngọc T, sinh năm 1987; Hộ khẩu thường trú: đường T, Phường S, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh; Chổ ở: đường D, Phường K, quận G, Tp. Hồ Chí Minh; (V ng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm t t như sau:

Lúc 11 giờ 30 phút, ngày 12/5/2020, tại trước nhà số 424 Dương Quảng Hàm, phường 5, quận Gò Vấp, Tổ công tác Đội CSHS - Công an quận Gò Vấp kết hợp Công an phường 5, quận Gò Vấp kiểm tra phát hiện Bùi Thanh V đang cất giấu 01 gói nylon, bên trong chứa tinh thể không màu, V khai là ma tuý nên tạm giữ V cùng vật chứng đưa về Công an phường 5, quận Gò Vấp lập biên bản b t giữ người phạm tội quả tang.

Tại Cơ quan điều tra, Bùi Thanh V khai nhận: Khoảng giữa tháng 4/2020, V sử dụng ma tuý được 03 tuần nên lúc 10 giờ 00’ ngày 22/5/2020, V liên lạc với một thanh niên tên Dũng (không rõ lai lịch) để mua ma túy tổng hợp với giá tiền 200.000 đồng về để sử dụng. Dũng đồng ý và hẹn V đến bờ kè khu Miếu nổi, quận Phú Nhuận để giao ma túy và nhận tiền. Sau đó, V điều khiển xe mô tô hiệu Yamaha biển số 59S2 – 039.55 đến chỗ hẹn gặp Dũng mua 01 gói ma túy tổng hợp với giá 200.000 đồng. Gói ma tuý mua được V cất giấu vào túi quần trước bên phải rồi chạy xe về hướng quận Gò Vấp để tìm nơi sử dụng. Khi V chạy xe đến trước số nhà 424 Dương Quảng Hàm, phường 5, quận Gò Vấp thì bị kiểm tra phát hiện b t quả tang tàng trữ trái phép chất ma túy như đã nêu trên.

Đối với người thanh niên tên Dũng (người bán ma túy cho V) không rõ nhân thân lai lịch nên không có cơ sở để xác minh, làm rõ. Cơ quan điều tra s tiếp tục điều tra nếu xác định được s xử lý sau.

Vật chứng thu giữ gồm:

- 01 gói nylon bên trong chứa tinh thể không màu được niêm phong, bên ngoài có chữ ký ghi tên Bùi Thanh V và hình dấu công an Phường 5, quận Gò Vấp, theo Kết luận giám định số 875/KLGĐ-H ngày 28/5/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh là ma túy ở thể r n, loại Methamphetamine có khối lượng 0,4670 gam.

- 01 ĐTDĐ hiệu OPPO số sim 1: 0906398093; số sim 2: 0927209685 là tài sản của V, V sử dụng điện thoại trên để liên lạc mua ma tuý.

- 01 xe g n máy hiệu Yamaha biển số 59S2 – 039.55. Số khung: RLCL 18K10EY012631; Số máy: 1SK1 – 012642. Qua xác minh do bà Bùi Ngọc T đứng tên chủ sở hữu. Ngày 22/5/2020, V mượn xe của bà T đi công việc. bà T không biết V sử dụng xe để đi mua ma túy.

Tại bản cáo trạng số 189/CTr-VKS, ngày 26/10/2020 Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp đã truy tố Bùi Thanh V về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm o khoản 2 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên toà hôm nay, Đại diện viện kiểm sát sau khi luận tội và đưa ra quan điểm xét xử đã đề nghị: Áp dụng điểm o khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017;

- Xử phạt bị cáo Bùi Thanh V từ 05 năm đến 06 năm tù.

- Miễn phạt bổ sung cho bị cáo.

Áp dụng Điều 46; Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung 2017 và khoản 1, điểm a,c khoản 2, khỏan 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

- Tịch thu và tiêu hủy lượng ma túy thu giữ.

- Tịch thu sung quỹ nhà nước 01 ĐTDĐ hiệu OPPO.

- Trả lại cho bà Bùi Ngọc Thảo 01 xe mô tô hiệu Yamaha biển số 59S2 – 039.55. Số khung: RLCL 18K10EY012631; Số máy: 1SK1 – 012642.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận và trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên toà hôm nay, sau khi Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp công bố bản cáo trạng thì Bùi Thanh V đã thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng đã nêu.

Lời khai nhận tội của bị cáo hoàn toàn phù hợp với bản kết luận điều tra của Công an quận Gò Vấp, cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp, biên bản phạm pháp quả tang và tang vật thu giữ, phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác đã thu thập được trong hồ sơ vụ án. Căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát trong quá trình Điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng.

Đối chiếu với các Điều luật tương ứng do Bộ luật Hình sự quy định. Hội đồng xét xử thấy có đủ cơ sở pháp lý để cho rằng hành vi của Bùi Thanh V đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” tội phạm và hình phạt trừng trị được quy định tại Điều 249 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

[2] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Bởi l , đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý, đã xâm phạm và làm ảnh hưởng đến chính sách quản lý kinh tế, an ninh quốc gia, gây mất trật tự trị an xã hội. Mặc dù bị cáo nhận thức được việc tàng trữ, sử dụng.....trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, bị pháp luật nghiêm cấm và nếu vi phạm s bị trừng trị nghiêm kh c, nhưng bị cáo vẫn ngang nhiên tàng trữ trái phép chất ma tuý để sử dụng, bất chấp những quy định của pháp luật, bất chấp mọi hậu quả xảy ra kể cả việc trừng trị của pháp luật. Xét nhân thân bị cáo đã 03 lần bị Tòa án nhân dân quận Gò Vấp và Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh xử phạt về tội “Cướp giật tài sản” chưa được xóa án, bị cáo vẫn tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội với tính chất và mức độ nguy hiểm hơn và lần phạm tội này là tái phạm nguy hiểm được quy định tại điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung 2017. Do đó, cần thiết phải có mức hình phạt thật nghiêm kh c đối với bị cáo, cần thiết có một khoảng thời gian cách ly bị cáo ra khỏi xã hội nhằm tạo điều kiện cho bị cáo từ bỏ con đường nghiện ngập và tiếp tục học tập phấn đấu trở thành người tốt hơn sau này biết tôn trọng pháp luật đồng thời cũng nhằm răn đe, phòng ngừa tội phạm chung.

Tuy nhiên khi lượng hình cần xem xét các tình tiết, tại Cơ quan điều tra cũng như qua diễn biến phiên toà hôm nay bị cáo đã thật thà khai báo thành khẩn nhận tội và tỏ ra ăn năn hối cải để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo mà l ra bị cáo phải chịu.

[3] Về hình phạt bổ sung quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung 2017 Hội đồng xét tính chất vụ án và hoàn cảnh của bị cáo nên quyết định miễn phạt cho bị cáo.

[4] Về xử lý vật chứng:

- Đối với 01 gói niêm phong, bên ngoài có chữ ký ghi tên Bùi Thanh V và hình dấu của Công an phường 5, quận Gò Vấp là chất nhà nước cấm lưu hành và sử dụng, Hội đồng xét xử quyết định tịch thu và tiêu hủy.

- Đối với 01 (một) điện thoại di động hiệu OPPO số sim 1: 0906398093; số sim 2: 0927209685 (bể màn hình) là phương tiện bị cáo dùng để liên lạc mua ma túy. Hội đồng xét xử quyết định tịch thu sung quỹ nhà nước.

- Đối với chiếc xe g n máy hiệu Yamaha biển số 59S2 – 039.55. Số khung: RLCL 1SK10EY012631; Số máy: 1SK1 – 012642. Qua xác minh do bà Bùi Ngọc T đứng tên chủ sở hữu. Bà T khai xe mua và đăng ký đứng tên chủ sở hữu vào năm 2014 để làm phương tiện đi lại. Ngày 22/5/2020, V mượn xe của T đi công việc, bà T không biết V sử dụng xe để đi mua ma túy. Hội đồng xét xử nhận thấy xe có nguồn gốc rõ ràng và không liên quan đến vụ án nên quyết định trả lại cho bà T.

[5] Đối với đối tượng tên Dũng là người bán ma túy cho V, Cơ quan điều tra chưa xác định được lai lịch nên chưa có căn cứ xử lý, khi nào xác định được s xử lý sau.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật. Vì các l trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Bùi Thanh V phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”;

Căn cứ điểm o khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017;

Xử phạt bị cáo Bùi Thanh V 05 (năm) năm tù. Thời hạn tù được tính kể từ ngày 22/5/2020.

Căn cứ Điều 46; Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung 2017 và khoản 1, điểm a,c khoản 2, khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

- Tịch thu và tiêu hủy 01 gói niêm phong, bên ngoài có chữ ký ghi tên Bùi Thanh V và hình dấu của Công an phường 5, quận Gò Vấp.

- Tịch thu sung quỹ nhà nước 01 (một) điện thoại di động hiệu OPPO số sim 1:0906398093; số sim 2: 0927209685 (bể màn hình).

- Trả lại cho bà Bùi Ngọc T chiếc xe g n máy hiệu Yamaha biển số 59S2 – 039.55. Số khung: RLCL 1SK10EY012631; Số máy: 1SK1 – 012642.

(Theo phiếu nhập kho vật chứng số 127/PNK, ngày 27/5/2020 của Công an quận Gò Vấp).

Áp dụng khỏan 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Luật Phí và Lệ phí, Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về án phí, lệ phí Tòa án;

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày tính kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo là 15 ngày được tính kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc ngày niêm yết.

Căn cứ Điều 26 của Luật Thi hành án dân sự năm 2008.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

213
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 180/2020/HS-ST ngày 13/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:180/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Gò Vấp - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về