Bản án 178/2019/HNGĐ-ST ngày 26/11/2019 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THỚI BÌNH, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 178/2019/HNGĐ-ST NGÀY 26/11/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN 

Ngày 26 tháng 11 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 394/2019/TLST-HNGĐ ngày 24 tháng 9 năm 2019 về việc tranh chấp ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 196/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 22 tháng 10 năm 2019 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Đào Mỹ T, sinh năm 1978 (xin vắng mặt)

Địa chỉ: Khóm A, thị trấn TB, huyện Thới Bình, tỉnh Đồng Nai.

Bị đơn: Ông Nguyễn Phước A, sinh năm 1983 (vắng mặt)

Địa chỉ: Khóm A, thị trấn TB, huyện Thới Bình,tỉnh Cà Mau.

NỘI DUNG VỤ ÁN

*Trình bày của bà Đào Mỹ T tại đơn khởi kiện ngày 17/9/2019:

Hôn nhân: Bà T và ông A tự nguyện chung sống với nhau có đăng ký kết hôn vào ngày 01/8/2019 tại Ủy ban nhân dân thị trấn TB, tỉnh Cà Mau. Vợ chồng chung sống không hạnh phúc do bất đồng quan điểm với nhau trong cuộc sống nên bà T yêu cầu được ly hôn với ông A.

Con chung: Bà T và ông A có 02 con chung là Nguyễn Phước D, sinh ngày 23/01/2006 (giới tính nam) và Nguyễn Thị Mỹ D1, sinh ngày 04/10/2010 (giới tính nữ), hiện cháu D do ông A nuôi dạy, cháu D1 do bà An đang nuôi dạy. Khi ly hôn, bà T không yêu cầu ông A cấp dưỡng nuôi con.

Tài sản chung, nợ chung: Không có nên không đặt ra yêu cầu xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện các chứng cứ, Hội đồng xét xử nhận định:

Về tố tụng và quan hệ pháp luật tranh chấp:

[1] Bà Đào Mỹ T khởi kiện yêu cầu được ly hôn với bị đơn là ông Nguyễn Phước A. Đây là tranh chấp hôn nhân và gia đình về việc ly hôn; ông A có nơi cư trú tại khóm 8, thị trấn TB, huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau. Vì vậy, yêu cầu khởi kiện của bà T thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thới Bình vắng mặt có lý do, ông A được Tòa án triệu tập xét xử lần thứ hai nhưng ông A vắng mặt không có lý do, bà T xin vắng mặt. Căn cứ vào khoản 1 Điều 232, khoản 1, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thới Bình, bà T, ông A.

Về nội dung vụ án:

[3] Về hôn nhân: Bà T và ông A tự nguyện chung sống với nhau có đăng ký kết hôn vào ngày 01/8/2019 tại Ủy ban nhân dân thị trấn TB, huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau. Tại đơn khởi kiện cũng như quá trình giải quyết vụ án bà T cho rằng vợ chồng chung sống không còn hạnh phúc do bất đồng quan điểm với nhau trong cuộc sống, mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, bà T không thể tiếp tục chung sống với ông A nên bà T yêu cầu ly hôn với ông A. Xét thấy, quan hệ hôn nhân giữa bà T và ông A đã tuân thủ về điều kiện đăng ký kết hôn tại Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền theo quy định tại Điều 8, 9 của Luật hôn nhân và gia đình nên được pháp luật công nhận là vợ chồng. Thời gian chung sống bà T xác định vợ chồng bất đồng quan điểm với nhau trong cuộc sống, mâu thuẫn vợ chồng đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân giữa bà T và ông A không đạt được. Trong quá trình thụ lý giải quyết vụ án, Tòa án có tiến hành hòa giải để bà T và ông A có điều kiện gặp nhau thỏa thuận đoàn tụ gia đình nhưng không có kết quả do ông A vắng mặt tại các lần hòa giải, xét xử không có lý do, bà T xin vắng mặt. Vì vậy, Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận cho bà T và ông A được ly hôn là phù hợp.

[4]. Về con chung: Bà T và ông A có 02 con chung là Nguyễn Phước D, sinh ngày 23/01/2006 (giới tính nam) và Nguyễn Thị Mỹ D1, sinh ngày 04/10/2010 (giới tính nữ), hiện cháu D do ông A nuôi dạy, cháu D1 do bà T đang nuôi dạy. Tại đơn khởi kiện, bà T yêu cầu được tiếp tục nuôi dạy cháu D1, bà tự nguyện để cho ông A tiếp tục nuôi dạy cháu D. Xét thấy con chung đã trên 07 tuổi, quá trình làm việc cháu D có nguyện vọng sống chung với ông A, cháu D1 có nguyện vọng sống chung với bà T, quá trình giải quyết vụ án ông A không có ý kiến gì đối với yêu cầu về con chung của bà T nên cần chấp nhận để cho bà T tiếp tục nuôi dạy con chung, bà T không đặt ra yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên không xem xét, bà T, ông A không trực tiếp nuôi con có quyền thăm con theo quy định của pháp luật là phù hợp với Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình nên có căn cứ chấp nhận.

[5] Về tài sản chung: Bà T xác định vợ chồng không có nên không đặt ra yêu cầu xem xét, do đó Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về nợ chung: Bà T xác định vợ chồng không có nợ người ngoài và người ngoài cũng không nợ vợ chồng nên không yêu cầu giải quyết. Tại đơn xin xác nhận không nợ ngày 16/9/2019 của Ủy ban nhân dân thị trấn TB và biên bản ghi lời khai của người làm chứng xác nhận bà T và ông A không có nợ chung. Do đó, Hội đồng xét xử không xem xét về nợ chung.

[7] Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Bà T phải chịu án phí theo quy định tại Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 1, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 56, 81, 82, 83 của luật Hôn nhân và Gia đình; Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Xét xử vắng mặt bà Đào Mỹ T và ông Nguyễn Phước A.

2. Chấp nhận yêu cầu của bà Đào Mỹ T về việc ly hôn với ông Nguyễn Phước A.

2.1. Về hôn nhân: Bà Đào Mỹ T và ông Nguyễn Phước A được ly hôn.

2.2. Về con chung: Giao Nguyễn Phước D, sinh ngày 23/01/2006 (giới tính nam) cho ông A tiếp tục nuôi dạy, giao cháu Nguyễn Thị Mỹ D1, sinh ngày 04/10/2010 (giới tính nữ) cho bà T tiếp tục nuôi dạy. Bà T không đặt ra yêu cấp dưỡng nuôi con nên không xem xét.

Bà T, ông A không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm con mà không ai được cản trở.

2.3. Tài sản chung, nợ chung: Không có 3. Về án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Bà T phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng). Vào ngày 17 tháng 9 năm 2019 bà T có dự nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai số 0010705 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau nay được chuyển thu án phí.

4. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

5. Về quyền kháng cáo, kháng nghị: Báo cho đương sự biết có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết công khai bản án. Viện kiểm sát có quyền kháng nghị theo luật định

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

188
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 178/2019/HNGĐ-ST ngày 26/11/2019 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:178/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thới Bình - Cà Mau
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về