Bản án 177/2019/HSST ngày 18/06/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NAM ĐỊNH, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 177/2019/HSST NGÀY 18/06/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 18 tháng 6 năm 2019, tại Nhà văn hóa Miền Thượng Lỗi 2, phường Lộc Vượng, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 176/2019/TLST-HS ngày 27 tháng 5 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 176/2019/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 6 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Trần Thanh Th; sinh năm 1974 tại tỉnh Nam Định; nơi cư trú: số B đường V, phường L, thành phố N, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: tự do; trình độ văn hóa: lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Trần Xuân C và bà: Trần Thị B; có vợ và 02 con; tiền án: không; tiền sự: ngày 28-10-2018 Công an phường Năng Tĩnh thành phố Nam Định xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức phạt tiền về hành vi “Gây mất trật tự ở khu dân cư”; ngày 17-12-2018 Công an phường Vị Hoàng thành phố Nam Định xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức cảnh cáo về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”; ngày 02-01-2019 Công an phường Vị Hoàng thành phố Nam Định xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức cảnh cáo về hành vi “Sử dụng tráiphép chất ma túy”; bị bắt, tạm giữ ngày 25-3-2019, chuyển tạm giam ngày 03-4-2019; có mặt.

Người làm chứng: Anh Trần Đăng T, ông Nguyễn Thanh T (không triệu tập tham gia phiên tòa); vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 00 giờ 30 phút ngày 25-3-2019, tổ công tác Phòng cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy, Công an tỉnh Nam Định kiểm tra hành chính đối với Trần Thanh Th đang đi xe máy biển kiểm soát Z tại khu vực trước cửa hiệu vàng P (đối diện tượng đài liệt sỹ) đường T, phường T, thành phố N. Quá trình kiểm tra, tổ công tác phát hiện trong túi quần bên trái đang mặc của Th 01 vỏ bao thuốc lá T, mở kiểm tra bên trong có 01 túi ni lông màu trắng kích thước (2x2) cm trong có chứa các hạt tinh thể màu trắng, Th khai là ma túy đá. Tổ công tác đã tiến hành niêm phong vật chứng, ký hiệu K, đưa Th cùng người làm chứng về trụ sở Công an lập biên bản bắt người phạm tội quả tang theo quy định của pháp luật, đồng thời tạm giữ của Th chiếc xe máy biển kiểm soát Z và 01 điện thoại Nokia vỏ màu đen, 01 điện thoại di động Mobell màu trắng đen đều đã cũ và số tiền 1.000.000 đồng.

Bản Kết luận giám định số 314/GĐKTHS ngày 25-3-2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định kết luận: Mẫu rắn dạng tinh thể màu trắng trong 01 túi ni lông màu trắng được niêm phong ký hiệu K gửi giám định là ma túy, loại ma túy: Methamphetamine, khối lượng: 0,512 (không phẩy năm trăm mười hai) gam.

Tại cơ quan điều tra, Trần Thanh Th khai: Khoảng 00 giờ 15 phút ngày 25-3-2019, Th điều khiển xe máy biển kiểm soát Z đi từ nhà đến khu vực N tầng xây dở trên đường Đ, phường Tr, thành phố N mua của một người đàn ông không rõ lai lịch, địa chỉ đang đứng trên vỉa hè một gói ma túy đá được bỏ trong bao thuốc lá T với số tiền 300.000 đồng rồi cất vào túi quần bên trái đi về để sử dụng. Khi đi đến khu vực trước cửa hiệu vàng P, đường Tr, phường Tr, thành phố N thì bị Công an phát hiện, bắt giữ.

Bản Cáo trạng số 180/CT-VKSTPNĐ ngày 27 tháng 5 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định truy tố Trần Thanh Th về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên toà, bị cáo Trần Thanh Th khai nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy mục đích để sử dụng như nội dung bản Cáo trạng đã truy tố.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định giữ quyền công tố tại phiên tòa luận tội: Giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo theo toàn bộ nội dung bản Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); tuyên bố bị cáo phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; xử phạt bị cáo từ 27 tháng đến 33 tháng tù; không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo; áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 để xử lý vật chứng.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận. Bị cáo nói lời sau cùng: Đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Nam Định, Điều tra viên,Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Trần Thanh Th không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện trong vụ án đều hợp pháp.

[2] Về trách nhiệm hình sự: Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của những người làm chứng và các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Khoảng 00 giờ 30 phút ngày 25-3-2019, bị cáo Trần Thanh Th bị Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Nam Định bắt quả tang cầm trong tay trái01 gói có chứa tinh thể dạng rắn màu trắng. Bản Kết luận giám định số 314/GĐKTHS ngày 25-3-2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định kết luận: Mẫu rắn dạng tinh thể màu trắng thu giữ của bị cáo được niêm phong gửi giám định là ma túy, loại ma túy: Methamphetamine, khối lượng: 0,512 (không phẩy năm trăm mười hai) gam. Bị cáo có năng lực trách nhiệm hình sự, tàng trữ trái phép chất ma túy mục đích để sử dụng, lỗi của bị cáo là lỗi cố ý. Do đó, bị cáo đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Quan điểm truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định là có căn cứ.

[3] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo: Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, xâm phạm chế độ độc quyền quản lý các chất ma túy của nhà nước, là nguyên nhân làm gia tăng tệ nạn ma túy và tội phạm, gây mất trật tự an toàn xã hội. Bị cáo có nhân thân xấu, nhiều lần bị xử phạt vi phạm hành chính. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đối với hành vi phạm tội của mình; do đó được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Hội đồng xét xử xét thấy cần phải áp dụng hình phạt tù đối với bị cáo là tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo.

[4] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: Số ma túy sau khi giám định hoàn lại là vật Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành, 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long không có giá trị sử dụng nên tịch thu, tiêu hủy. Chiếc điện thoại Nokia màu đen, chiếc điện thoại di động Mobell màu trắng đen và số tiền 1.000.000 (một triệu) đồng là tài sản của bị cáo, không phải công cụ phương tiện phạm tội nên trả lại cho bị cáo nhưng cần tạm giữ để bảo đảm thi hành án. Đối với chiếc xe máy biển kiểm soát Z, tài liệu điều tra chưa đủ căn cứ xác định chủ sở hữu nên Cơ quan điều tra tách ra tiếp tục điều tra, xử lý sau là đúng quy định của pháp luật.

[6] Đối với đối tượng đã bán ma túy cho Trần Thanh Th, tài liệu điều tra chưa đủ căn cứ kết luận nên Cơ quan điều tra tách ra tiếp tục điều tra, xử lý sau là đúng quy định của pháp luật.

[7] Về án phí: Bị cáo Trần Thanh Th phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 106, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 Ủy ban Thường vụ Quốc hội:

1. Tuyên bố: Bị cáo Trần Thanh Th phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Trần Thanh Th 02 (hai) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn tù của bị cáo tính từ ngày 25-3-2019.

2. Xử lý vật chứng: Tịch thu, tiêu hủy số ma túy có trong phong bì niêm phong số 314/GĐKTHS; trả lại cho bị cáo chiếc điện thoại Nokia màu đen, chiếc điện thoại Mobell màu trắng đen và số tiền 1.000.000 (một triệu) đồng nhưng tạm giữ để bảo đảm thi hành án (chi tiết vật chứng ghi trong biên bản giao nhận vật chứng ngày 20-5-2019).

3. Án phí: Bị cáo Trần Thanh Th phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo Trần Thanh Th được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

172
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 177/2019/HSST ngày 18/06/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:177/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Nam Định - Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về