Bản án 175/2019/HS-ST ngày 30/08/2019 về tội đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HUẾ, TỈNH THỪA THIÊN HUẾ

BẢN ÁN 175/2019/HS-ST NGÀY 30/08/2019 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 30 tháng 8 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 166/2019/HSST ngày 30 tháng 7 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 171/2019/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 8 năm 2019 đối với các bị cáo:

1. Trần Thị Mỹ L, sinh ngày 09 tháng 01 năm 1979 tại tỉnh Thừa Thiên Huế.

Nơi cư trú: 06/20 đường L, phường A, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế; nghề nghiệp: Buôn bán; trình độ văn hoá: Không biết chữ; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Phật giáo; quốc tịch: Việt Nam; Không rõ họ và tên cha, con bà Đặng Thị T; chồng: Không có; con: Trần Văn D, sinh ngày 01/12/2015; tiền sự: Không; tiền án: Có 01 tiền án: Ngày 21/9/2013 bị Tòa án nhân dân thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế xử phạt 09 tháng cải tạo không giam giữ, phạt bổ sung 3.000.000đồng về tội Đánh bạc (Bản án số 240/2013/HSST). Tại Giấy xác nhận kết quả thi hành án số 01/GXN-THADS ngày 08/10/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố H xác định Trần Thị Mỹ L chưa chấp hành xong các khoản án phí hình sự sơ thẩm và hình phạt bổ sung tại bản án hình sự số 240/2013/HSST ngày 21/9/2013.

* Quá trình nhân thân: Lúc nhỏ sống với mẹ tại 06/20 đường L, phường A, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế, không được đi học.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. Có mặt.

2. Nguyễn Thị L, sinh ngày 01 tháng 01 năm 1966 tại tỉnh Thừa Thiên Huế.

Nơi cư trú: Tổ X, khu vực Y, phường A, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế; nghề nghiệp: Buôn bán; trình độ văn hoá: 4/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Ch (đã chết), con bà Đỗ Thị C (đã chết); chồng: Trần C, sinh năm 1957; con: Có 05 người con, lớn nhất sinh năm 1985, nhỏ sinh năm 1997; tiền án: Không; tiền sự: Có 01 tiền sự - ngày 25/4/2017, bị Công an phường A, thành phố H xử phạt vi phạm hành chính 1.500.000đồng về hành vi “Đánh bạc”.

* Quá trình nhân thân: Lúc nhỏ sống với mẹ, đi học hết lớp 4/12 thì nghỉ học, ở nhà phụ giúp gia đình.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. Có mặt.

* Người bào chữa cho bị cáo Trần Thị Mỹ L: Ông Đặng Bá Q – Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Thừa Thiên Huế. Có mặt.

* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

1. Bà Nguyễn Thị Thanh T, sinh ngày 10/10/1976.

Địa chỉ: 59/263 B, phường P, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế. Vắng mặt.

2. Bà Trần Thị Th, sinh ngày 24/4/1954.

Địa chỉ: 11/10 V, phường P, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế. Có mặt.

3. Bà Tống Thị Mỹ L, sinh ngày 20/7/1972.

Địa chỉ: Lô X đường T, Tổ X, khu vực Y, phường A, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế. Có mặt.

4. Bà Trần Thị B, sinh ngày 20/10/1947.

Địa chỉ: 15/119 H, phường P, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế. Vắng mặt.

5. Bà Nguyễn Thị H, sinh ngày 01/01/1972.

Địa chỉ: 27/48 N, phường A, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế. Có mặt.

6. Bà Nguyễn Thị V, sinh năm 1968.

Địa chỉ: Tổ X, khu vực Y, phường A, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế. Vắng mặt.

* Người làm chứng:

1. Ông Nguyễn Thành C, sinh năm 1984.

Địa chỉ: Tổ X, khu vực Y, phường P, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 15 giờ 30 phút ngày 24/9/2018, Nguyễn Thị V (sinh năm 1968; trú tại Tổ X, khu vực Y, phường A, thành phố H) đi đến kiệt 16 đường Đ, phường P, thành phố H thì thấy có một bộ bài tú lơ khơ (bài 52 lá) để gần đó, nên V lấy bộ bài, rồi cùng đánh bạc với Trần Thị Mỹ L, Trần Thị B (sinh năm 1947; trú tại 15/119 đường H, phường P, thành phố H), Nguyễn Thị Thanh T (sinh năm 1976; trú tại 59/263 đường B, phường P, thành phố H), Tống Thị Mỹ L (sinh năm 1972; trú tại Tổ X, khu vực Y, phường A, thành phố H), Nguyễn Thị H (sinh năm 1972; trú tại 27/48 đường N, phường A, thành phố H), Trần Thị Th (sinh năm 1954; trú tại: 11/10 đường V, phường P, thành phố H), Nguyễn Thị L (sinh năm 1966; trú tại Lô B, khu Đ, phường A, thành phố H). L, V, B, T, L, H, Th, L cùng nhau đánh bạc bằng hình thức đánh bài “Xì lác”. Các đối tượng thay nhau làm “Cái” và số tiền đặt cược mỗi ván thấp nhất là 20.000đồng, cao nhất là 50.000đồng. Trong quá trình đánh bạc, có một số đối tượng không rõ nhân thân, lai lịch tham gia vào đánh một vài ván, rồi bỏ đi. Đến 16 giờ 30 phút cùng ngày, trong lúc Trần Thị Mỹ L cùng những người nêu trên đang đánh bạc, thì bị Công an thành phố H phát hiện, lập biên bản kiểm tra và thu giữ các vật chứng gồm:

- Một (01) bộ bài tú lơ khơ 52 lá;

- Tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, số tiền 1.850.000đồng (Một triệu tám trăm năm mươi nghìn đồng). Trong đó: Thu giữ của T 100.000đồng, L 100.000đồng, H 200.000đồng, B 100.000đồng, L 100.000đồng, Th 500.000đồng, L 300.000đồng và V 450.000đồng. Đây là số tiền mà các đối tượng dùng để đánh bạc được thu giữ trực tiếp tại chiếu bạc.

Tại Bản cáo trạng số 171/CT-VKS ngày 22/7/2019 Viện kiểm sát nhân dân thành phố Huế đã truy tố các bị cáo Trần Thị Mỹ L và Nguyễn Thị L về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Đối với Nguyễn Thị Thanh T, Tống Thị Mỹ L, Nguyễn Thị H, Trần Thị B, Trần Thị Th, Nguyễn Thị V đã có hành vi cùng Trần Thị Mỹ L và Nguyễn Thị L tham gia đánh bạc với tổng số tiền là 1.850.000đồng. Quá trình điều tra xác định tại thời điểm nêu trên, tất cả những người này đều không có tiền án, tiền sự về hành vi “Đánh bạc”, “Tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc”, nên không truy cứu trách nhiệm hình sự. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố H đã ra các Quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Đánh bạc”.

Đối với một số đối tượng tham gia đánh một vài ván rồi bỏ đi, do không rõ nhân thân, lai lịch nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố H không có căn cứ để điều tra, xử lý.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố H: Giữ nguyên truy tố. Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố hai bị cáo Trần Thị Mỹ L và Nguyễn Thị L phạm tội Đánh bạc. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 321, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Trần Thị Mỹ L từ 06 đến 09 tháng tù. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 321, điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 36 của Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Thị L từ 06 đến 09 cải tạo không giam giữ, đề nghị khấu trừ thu nhập từ 10% đến 15% thu nhập.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị tịch thu tiêu hủy 01 bộ bài tú lơ khơ 52 lá; tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 1.850.000đồng (Một triệu tám trăm nghìn đồng).

Về án phí hình sự sơ thẩm: Hai bị cáo L và L phải chịu theo luật định.

Tại phiên tòa người bào chữa cho bị cáo Trần Thị Mỹ L có ý kiến: Nhất trí với truy tố bị cáo Trần Thị Mỹ L về tội Đánh bạc theo quy định tại khoản 1 Điều 321 của Bộ luật hình sự. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Tang số phạm tội không lớn, bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng, không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Xem xét thêm cho bị cáo là lao động chính trong gia đình, có mẹ già hay đau ốm, có con nhỏ, gia đình thuộc hộ cận nghèo, bị cáo không biết chữ, không hiểu biết pháp luật. Sau khi bị cáo phạm tội đã nộp số tiền phạt và án phí hình sự của bản án trước. Nếu cách ly bị cáo thì không ai nuôi mẹ già, con nhỏ, nên đề nghị xem xét không cách ly bị cáo ra xã hội. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 321, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 36 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Trần Thị Mỹ L từ 18 tháng đến 24 tháng cải tạo không giam giữ.

Bị cáo Trần Thị Mỹ L nhất trí với ý kiến của người bào chữa.

Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Thị L thừa nhận hành vi phạm tội của mình.

Tại phiên tòa những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Trần Thị Th, Tống Thị Mỹ L, Nguyễn Thị H nhất trí không có ý kiến gì thêm về số tiền bị thu giữ, đề nghị xử lý theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Khoảng 15 giờ 30 phút ngày 24/9/2018, tại kiệt 16 đường Đ, phường A, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế, Trần Thị Mỹ L, Nguyễn Thị L cùng Nguyễn Thị V, Trần Thị B, Nguyễn Thị Thanh T, Tống Thị Mỹ L, Nguyễn Thị H, Trần Thị Th đánh bạc thắng thua bằng tiền bằng hình thức đánh bài Xì lác. Số tiền thu giữ dùng để đánh bạc là 1.850.000đồng.

Trần Thị Mỹ L ngày 21/9/2013 bị Tòa án nhân dân thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế xử phạt 09 tháng cải tạo không giam giữ, phạt bổ sung 3.000.000đồng về tội Đánh bạc, chưa được xóa án tích nhưng lại tiếp tục vi phạm. Do đó Viện kiểm sát nhân dân thành phố H truy tố bị cáo Trần Thị Mỹ L về tội Đánh bạc theo quy định tại khoản 1 Điều 321 của Bộ luật hình sự năm 2015 là có căn cứ, đúng pháp luật.

Nguyễn Thị L ngày 25/4/2017 bị Công an phường A, thành phố H xử phạt vi phạm hành chính 1.500.000đồng về hành vi “Đánh bạc”, không được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính, nay lại tiếp tục đánh bạc trái phép với tổng số tiền là 1.850.000đồng. Do đó Viện kiểm sát nhân dân thành phố H truy tố bị cáo Nguyễn Thị L về tội Đánh bạc theo quy định tại khoản 1 Điều 321 của Bộ luật hình sự năm 2015 là có căn cứ, đúng pháp luật.

[2]. Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo, thấy rằng: Bị cáo Trần Thị Mỹ L và Nguyễn Thị L là người có năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật, nhưng do muốn thu lợi bất chính, các bị cáo đã có hành vi đánh bạc cùng người khác. Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến trật tự công cộng, ảnh hưởng đến trật tự trị an tại địa phương, ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của cá nhân và xã hội. Do đó, cần xử phạt các bị cáo với mức phạt thích đáng tương xứng với tính chất và mức độ của hành vi phạm tội nhằm răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

Tại phiên tòa người bào chữa đề nghị xử phạt bị cáo Trần Thị Mỹ L từ 18 đến 24 tháng cải tạo không giam giữ. Tuy nhiên ngày 21/9/2013 bị cáo L đã bị Tòa án nhân dân thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế xử phạt 09 tháng cải tạo không giam giữ về tội Đánh bạc, chưa được xóa án tích lại tiếp tục phạm tội, bị cáo có nhân thân xấu. Nên lần phạm tội này cần áp dụng hình phạt nghiêm khắc hơn, cách ly bị cáo ra xã hội nhằm răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung như đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa. Bị cáo Trần Thị Mỹ L sau khi phạm tội đã biết lỗi và nộp số tiền phạt của bản án trước là 3.000.000đồng và 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm, đã biết ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, quá trình điều tra truy tố, xét xử bị cáo đã thành khẩn khai báo, đã tỏ ra ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự; bị cáo không phạm vào tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào; xem xét thêm cho bị cáo có mẹ già, con còn nhỏ, gia đình thuộc hộ cận nghèo, bị cáo không biết chữ, phạm tội tang số không lớn, nên cần áp dụng thêm Điều 54 của Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo mức phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt cũng đã đủ tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

Đối với bị cáo Nguyễn Thị L được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là Phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, Thành khẩn khai báo. Bị cáo không phạm vào tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào. Xét trong vụ án các bị cáo là đồng phạm giản đơn, tang số đánh bạc ít, bị cáo L có nơi cư trú rõ ràng, nên áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ đối với bị cáo L như đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa cũng đã đủ tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung. Do bị cáo L thu nhập không ổn định, nên miễn khấu trừ thu nhập đối với bị cáo Lộc.

[3]. Hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử là đúng theo quy định của pháp luật.

[4]. Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu tiêu hủy 01 bộ bài tú lơ khơ 52 lá.

- Tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 1.850.000đồng (Một triệu tám trăm nghìn đồng).

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 20/12/2018 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra công an thành phố H với Chi cục Thi hành án dân sự thành phố H).

[5]. Về án phí hình sự sơ thẩm: Các bị cáo Trần Thị Mỹ L và Nguyễn Thị L phải chịu theo luật định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Trần Thị Mỹ L và bị cáo Nguyễn Thị L phạm tội “Đánh bạc”.

2. Căn cứ vào khoản 1 Điều 321, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 54 của Bộ luật hình sự năm 2015:

- Xử phạt bị cáo Trần Thị Mỹ L 04 (Bốn) tháng tù, thời gian chấp hành hình phạt tính từ ngày bắt giam thi hành án.

3. Căn cứ vào khoản 1 Điều 321, điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 36 của Bộ luật hình sự năm 2015:

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị L 09 (Chín) tháng cải tạo không giam giữ, thời gian chấp hành hình phạt tính từ ngày cơ quan, tổ chức được giao giám sát, giáo dục bị cáo Nguyễn Thị L nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án.

Miễn khấu trừ thu nhập đối với bị cáo Nguyễn Thị L.

Giao bị cáo Nguyễn Thị L cho Ủy ban nhân dân phường A, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế giám sát, giáo dục trong thời gian thi hành án.

4. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015:

- Tịch thu tiêu hủy 01 bộ bài tú lơ khơ 52 lá.

- Tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 1.850.000đồng (Một triệu tám trăm nghìn đồng).

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 20/12/2018 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra công an thành phố H với Chi cục Thi hành án dân sự thành phố H).

5. Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án:

- Các bị cáo Trần Thị Mỹ L và Nguyễn Thị L mỗi bị cáo phải chịu 200.000đồng (Hai trăm nghìn đồng).

6. Án sơ thẩm xét xử công khai, các bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

315
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 175/2019/HS-ST ngày 30/08/2019 về tội đánh bạc

Số hiệu:175/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Huế - Thừa Thiên Huế
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về