Bản án 174/2020/HSST ngày 21/05/2020 về tội đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 174/2020/HSST NGÀY 21/05/2020 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Trong ngày 21 tháng 5 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 126/2020/HSST ngày 26 tháng 3 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 163/2020/QĐXXST- HS ngày 24 tháng 4 năm 2020 đối với các bị cáo:

1. Cao Xuân T, sinh năm 1986 tại tỉnh Bình Thuận; thường trú: Số 188/20 tổ 19, khu phố G2, thị trấn C huyện P, tỉnh Bình Thuận; nghề nghiệp: Lái xe; trình độ học vấn: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; con ông Cao Thành T, sinh năm 1963 và con bà Phạm Thị D, sinh năm 1962; bị cáo có 03 anh em ruột, bị cáo là thứ 1; tiền án, tiền sự: Không có.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 22/12/2019 đến ngày 31/12/2019 được hủy bỏ biện pháp tạm giữ bằng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, có mặt.

2. Lê Xuân T1, sinh năm 1985 tại tỉnh Hà Nam; thường trú: Thôn Đào, xã T huyện L (nay là Thành phố L), tỉnh Hà Nam; tạm trú: K12 khu dân cư 610, khu phố L, phường H, Thành phố K, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; con ông Lê Xuân T, sinh năm 1962 và con bà Nguyễn Thị K, sinh năm 1963; bị cáo có vợ tên Nguyễn Thị L, sinh năm 1992 và có 01 con sinh năm 2014; tiền án, tiền sự: Không có. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 22/12/2019 đến ngày 31/12/2019 được hủy bỏ biện pháp tạm giữ bằng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, có mặt.

3. Nguyễn Hữu T2, sinh năm 1987 tại tỉnh An Giang; thường trú: Số 55/38 đường L, khu phố L, phường H, Thành phố K, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Lái xe; trình độ học vấn: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; con ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1968 và con bà Huỳnh Thị Thanh T, sinh năm 1970; bị cáo có vợ tên Bùi Thị Thùy L, sinh năm 1984 và có 02 con sinh năm 2006 và năm 2014; tiền án, tiền sự: Không có. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 22/12/2019 đến ngày 31/12/2019 được hủy bỏ biện pháp tạm giữ bằng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, có mặt.

4. Đào Tấn H, sinh năm 1991 tại tỉnh Bình Định; thường trú: Tổ 1 khối N, thị trấn P, huyện S, tỉnh Bình Định; tạm trú: Số 89/5 khu phố L, phường H, Thành phố K, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Nhân viên kỹ thuật; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; con ông Đào Văn T, sinh năm 1965 và con bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1967; bị cáo có 02 anh em ruột, bị cáo là thứ 1; tiền án, tiền sự: Không có. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 22/12/2019 đến ngày 31/12/2019 được hủy bỏ biện pháp tạm giữ bằng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, có mặt.

5. Lê Ngọc T3, sinh năm 1982 tại tỉnh Bình Dương; thường trú: Số 2B/2 tổ 2 khu phố T, phường T, Thành phố K, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Lái xe; trình độ học vấn: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; con ông Lê Văn S, sinh năm 1960 và con bà Nguyễn Ngọc Thùy T, sinh năm 1962; có 01 con sinh năm 2001; tiền án, tiền sự: Không có.Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 22/12/2019 đến ngày 31/12/2019 được hủy bỏ biện pháp tạm giữ bằng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, có mặt.

6. Hồ Hữu Đ, sinh năm 1983 tại tỉnh Nghệ An; thường trú: Số 41 đường số 8, cư xá T, phường 8, Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh; tạm trú: Số 75/3 đường L, phường H, Thành phố K, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Lái xe; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; con ông Hồ Hữu T, sinh năm 1962 và con bà Ngô Thị T, sinh năm 1964; bị cáo có vợ tên Hồ Thị Lệ H, sinh năm 1987 và có 02 con sinh năm 2006 và năm 2013; tiền án, tiền sự: Không có. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 22/12/2019 đến ngày 31/12/2019 được hủy bỏ biện pháp tạm giữ bằng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, có mặt.

7. Ngô Quang T4, sinh năm 1984 tại tỉnh Thái Bình; thường trú: Số 95 đại lộ 2, khu phố 3, phường B, Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh; tạm trú: Số 89/1 khu phố L, phường H, Thành phố K, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Lái xe; trình độ học vấn: 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; con ông Ngô Duy S, sinh năm 1951 (đã chết) và con bà Trần Thị C, sinh năm 1952; bị cáo có vợ tên Huỳnh Thị Hoài M, sinh năm 1990 và có 02 con sinh năm 2013 và năm 2020; tiền án, tiền sự: Không có. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 22/12/2019 đến ngày 25/12/2019 được hủy bỏ biện pháp tạm giữ bằng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, có mặt.

- Người làm chứng :

1. Anh Đinh Trường G, sinh năm 1991, vắng mặt.

2. Anh Kỳ Văn Anh T5, sinh năm 1972, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 14 giờ 00 phút ngày 22/12/2019, tại địa chỉ khu phố Tân Lập, phường Đông Hòa, Thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương. Các bị cáo Lê Xuân T1, Đào Tấn H, Cao Xuân T, Nguyễn Hữu T2, Lê Ngọc T3, Hồ Hữu Đ và Ngô Quang T4 rủ nhau chơi bài liêng tố thắng thua bằng tiền mỗi ván từ 20.000 đồng, người chơi tố từ 20.000 đồng đến 200.000 đồng. Tất cả chơi đến 16 giờ cùng ngày Đội cảnh sát hình sự Công an Thành phố Dĩ An kết hợp cùng Công an phường Đông Hòa kiểm tra hành chính, lập biên bản phạm tội quả tang đối với các bị cáo.

Vật chứng thu giữ: Tiền tang tại chiếu bạc là 3.000.000 đồng; thu giữ tiền trong người của Cao Xuân T 6.500.000 đồng, Lê Xuân T1 1.330.000 đồng, Nguyễn Hữu T2 2.000.000 đồng, Đào Tấn H 800.000 đồng, Lê Ngọc T3 10.000 đồng, Hồ Hữu Đ 2.900.000 đồng và 01 (một) bộ bài tây 52 lá đã qua sử dụng.

Các bị cáo sử dụng số tiền đánh bạc:

Cao Xuân T mang theo và sử dụng 6.000.000 đồng để đánh bạc, khi chơi thắng 500.000 đồng, khi bắt giữ thu giữ trong người 6.500.000 đồng.

Lê Xuân T1 mang theo và sử dụng 3.000.000 đồng để đánh bạc, khi chơi thắng 100.000 đồng, khi bắt giữ thu giữ trên chiếu bạc 1.770.000 đồng và thu giữ trong người 1.330.000 đồng.

Nguyễn Hữu T2 mang theo và sử dụng 2.800.000 đồng để đánh bạc, khi chơi thua 800.000 đồng, khi bắt giữ thu giữ trong người 2.000.000 đồng.

Đào Tấn H mang theo và sử dụng 840.000 đồng để đánh bạc, khi chơi thắng 400.000 đồng, khi bắt giữ thu giữ trên chiếu bạc 440.000 đồng và thu giữ trong người 800.000 đồng.

Lê Ngọc T3 mang theo và sử dụng 500.000 đồng để đánh bạc, khi chơi không thắng không thua, khi bắt giữ thu giữ trên chiếu bạc 490.000 đồng và thu giữ trong người 10.000 đồng. Hồ Hữu Đ mang theo 3.400.000 đồng, sử dụng 500.000 đồng để đánh bạc, khi chơi thua 200.000 đồng, khi bắt giữ thu giữ trên chiếu bạc 300.000 đồng và thu giữ trong người 2.900.000 đồng.

Ngô Quang T4 ngồi xem đánh bạc, tham gia bốc bài đánh dùm cho Cao Xuân T được 3 ván bài thì bị lực lượng Công an bắt quả tang.

Tổng số tiền Cao Xuân T, Lê Xuân T1, Nguyễn Hữu T2, Đào Tấn H, Lê Ngọc T3, Hồ Hữu Đ, Ngô Quang T4 sử dụng để đánh bạc là 13.640.000 đồng.

Cáo trạng số 157/CT – VKS ngày 24 tháng 3 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố các bị cáo T, T1, T2, H, T3, Đ và T4 về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa, trong phần tranh luận đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên bản cáo trạng truy tố đối với các bị cáo, đánh giá tính chất mức độ hành vi phạm tội tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân các bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 321, điểm i, s khoản 1, Điều 51 và Điều 58 Bộ luật Hình sự xử phạt các bị cáo:

Cao Xuân T từ 25.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng.

Lê Xuân T1 từ từ 24.000.000 đồng đến 27.000.000 đồng. Hồ Hữu Đ từ 24.000.000 đồng đến 27.000.000 đồng.

Nguyễn Hữu T2 từ 20.000.000 đồng đến 25.000.000 đồng.

Đào Tấn H từ 20.000.000 đồng đến 25.000.000 đồng. Lê Ngọc T3 từ 20.000.000 đồng đến 25.000.000 đồng. Ngô Quang T4 từ 20.000.000 đồng đến 25.000.000 đồng.

Về vật chứng: Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 13.640.000 đồng, tịch thu tiêu hủy bộ bài tây.

Các bị cáo không bào chữa, không tranh luận với Đại diện Viện kiểm sát. Trước khi Hội đồng xét xử nghị án các bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo T, T1, Đ, T2, H, T3, T4 xin xem xét giảm nhẹ mức hình phạt thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Chứng cứ xác định có tội của các bị cáo: Biên bản bắt người phạm tội quả tang ngày 22/12/2019, biên bản ghi lời khai các bị cáo thể hiện ngày 22/12/2019 tại khu phố Tân Lập, phường Đông Hòa, Thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương. Các bị cáo Lê Xuân T1, Đào Tấn H, Cao Xuân T, Nguyễn Hữu T2, Lê Ngọc T3, Hồ Hữu Đ và Ngô Quang T4 đánh bài liêng tố thắng thua bằng tiền với tổng số tiền 13.640.000 đồng. Như vậy, hành vi trên của các bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Đánh bạc” quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự. Bản cáo trạng số 157/CT – VKS ngày 24 tháng 3 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố các bị cáo cũng như bản luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa đối với các bị cáo là có căn cứ pháp luật.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa thể hiện thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo H có cha ruột Đào Văn T được tặng thưởng Huân chương chiến công hạng ba. Tình tiết trên được quy định tại điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Về nhân thân: Các bị cáo có nhân thân tốt thể hiện việc có việc làm ổn định, các bị cáo nhất thời phạm tội.

[2] Về tính chất mức độ tội phạm: Tội phạm các bị cáo thực hiện thuộc trường hợp ít nghiêm trọng do có khung hình phạt đến 03 năm tù. Các bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý. Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến an toàn trật tự công cộng tại địa phương. Đánh bạc được xem là một trong những nguyên nhân làm phát sinh các loại tội phạm hình sự khác. Do vậy, hành vi trên của các bị cáo phải được xét xử nghiêm mới có tác dụng răn đe phòng ngừa chung trong xã hội.

[3] Trong vụ án có đồng phạm nhưng là đồng phạm giản đơn, do không có sự phân công vai trò cụ thể của các bị cáo nên không xem là phạm tội có tổ chức. Các bị cáo tham gia với vai trò người thực hành.

[4] Xét các bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Vì vậy, việc áp dụng phạt tiền đối với các bị cáo cũng có tác dụng giáo dục, đấu tranh phòng ngừa tội phạm chung trong xã hội. Tuy nhiên, cũng xem xét về số tiền cụ thể từng bị cáo tham gia đánh bạc để có mức phạt tiền phù hợp.

[5] Vật chứng thu giữ: 13.640.000 đồng do các bị cáo sử dụng Đánh bạc, cần tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước. Bộ bài tây 52 lá sử dụng việc đánh bạc cần tịch thu tiêu hủy.

[6] Đối với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát Thành phố Dĩ An đưa ra tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân các bị cáo, việc xử lý vật chứng cũng như mức hình phạt đối với các bị cáo phù hợp quan điểm của Hội đồng xét xử được chấp nhận.

[7] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Thành phố Dĩ An, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Dĩ An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[8] Án phí sơ thẩm: Các bị cáo phải nộp án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

 1. Tuyên bố các bị cáo Cao Xuân T, Lê Xuân T1, Nguyễn Hữu T2, Đào Tuấn H, Lê Ngọc T3, Hồ Hữu Đ, Ngô Quang T4 phạm tội Đánh bạc.

1.1 Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51 và Điều 58 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Cao Xuân T 30 (ba mươi triệu đồng) 1.2 Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51 và Điều 58 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Lê Xuân T1 25.000.000 đồng (hai mươi lăm triệu đồng).

1.3 Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51 và Điều 58 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Hữu T2 25.000.000 đồng (hai mươi lăm triệu đồng).

1.4 Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51 và Điều 58 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Đào Tuấn H 20.000.000 đồng (hai mươi triệu đồng).

1.5 Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51 và Điều 58 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Lê Ngọc T3 20.000.000 đồng (hai mươi triệu đồng).

1.6 Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51 và Điều 58 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Hồ Hữu Đ 20.000.000 đồng (hai mươi triệu đồng).

1.7 Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51 và Điều 58 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Ngô Quang T4 20.000.000 đồng (hai mươi triệu đồng).

2. Các biện pháp tư pháp:

2.1. Về vật chứng: Căn cứ Điều 46, điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự. Điều 89, điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 13.640.000 đồng (mười ba triệu, sáu trăm bốn mươi nghìn đồng);

Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) bộ bài tây Theo biên lai thu tiền số 01496, biên bản giao nhận vật chứng ngày 26/3/2020 tại Chi cục thi hành án Dân sự Thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương.

2.2. Về án phí: Căn cứ Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc Hội khoá 14. Các bị cáo Cao Xuân T, Lê Xuân T1, Nguyễn Hữu T2, Đào Tuấn H, Lê Ngọc T3, Hồ Hữu Đ, Ngô Quang T4 mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí Hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

380
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 174/2020/HSST ngày 21/05/2020 về tội đánh bạc

Số hiệu:174/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về