TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
BẢN ÁN 172/2021/HNGĐ-ST NGÀY 08/09/2021 VỀ LY HÔN
Ngày 08 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện T, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 289/2021/TLST-HNGĐ ngày 15 tháng 7 năm 2021 về việc “ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 173/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 23 tháng 8 năm 2021, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Thúy P, sinh năm 1978; địa chỉ: Thôn Đ, xã L, huyện T, thành phố Hải Phòng.
- Bị đơn: Ông Phạm Đình H, sinh năm 1971; địa chỉ: Thôn Đ, xã L, huyện T, thành phố Hải Phòng.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện và các lời khai tại Tòa án, nguyên đơn là bà Nguyễn Thị Thúy P trình bày:
1. Về hôn nhân:
Bà Nguyễn Thị Thúy P và ông Phạm Đình H kết hôn với nhau vào năm 2020 trên cơ sở tìm hiểu tự nguyện và có đăng ký kết hôn theo giấy chứng nhận kết hôn số 25 ngày 10/11/2020 tại Ủy ban nhân dân xã L, huyện T, thành phố Hải Phòng. Quá trình chung sống, bà P và ông H hòa thuận hạnh phúc được một thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do tính cách của vợ chồng không hòa hợp, bất đồng với nhau về quan điểm, về làm ăn kinh tế, về tín ngưỡng; vợ chồng thường xảy ra cãi mắng nhau, cuộc sống chung rất căng thẳng, mệt mỏi nên bà P đề nghị Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn ông Phạm Đình H.
2. Về con chung: Bà P trình bầy bà và ông H không có con chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết khi ly hôn.
3. Về tài sản chung: Quá trình chung sống bà P và ông H không có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Ông Phạm Đình H là bị đơn trong vụ án trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa có những quan điểm sau:
Ông và bà P kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, có tổ chức cưới theo phong tục và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã L. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc, được khoảng hai tháng thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do vợ chồng chưa hiểu nhau, dẫn đến xảy ra cãi mắng nhau. Ông H mong muốn bà P thông cảm cho cuộc sống, hoàn cảnh của ông, cho ông thời gian để vợ chồng hiểu nhau hơn và mong muốn vợ chồng về đoàn tụ. Ông H trình bầy ông và bà P không có con chung, không tài sản chung.
Kiểm sát viên phát biểu ý kiến trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án thì Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã tuân theo đúng pháp luật tố tụng, nguyên đơn, bị đơn chấp hành đúng pháp luật tố tụng dân sự. Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51, Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình; chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: Cho bà Bùi Thị Thúy P được ly hôn ông Phạm Đình H. Nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về tố tụng: Đây là vụ án tranh chấp về hôn nhân gia đình và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện T, thành phố Hải Phòng theo quy định tại Điều 28, Điều 35 và Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2]. Về hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa bà Nguyễn Thị Thúy P và ông Phạm Đình H được xác lập trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn theo Giấy chứng nhận kết hôn số 25 ngày 10/11/2020 tại Ủy ban nhân dân xã L, huyện T, thành phố Hải Phòng là hợp pháp. Quá trình giải quyết vụ án, bà P và ông H đều thừa nhận vợ chồng có mâu thuẫn, nguyên nhân là do tính tình vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm. Bà P đề nghị Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông H. Ông Phạm Đình H mong muốn bà P chấp nhận hoàn cảnh của ông, cho ông thêm thời gian để vợ chồng hiểu nhau và về đoàn tụ. Căn cứ vào lời khai của đương sự và tài liệu điều tra xác minh tại địa phương thể hiện trong quá trình chung sống vợ chồng phát sinh mâu thuẫn và ngày càng trở nên sâu sắc, trầm trọng không thể hàn gắn tình cảm được, do mâu thuẫn vợ chồng nên bà P và ông H đã sống ly thân, không còn quan tâm đến nhau. Điều đó chứng tỏ mâu thuẫn vợ chồng đã trạng trầm trọng, khả năng đoàn tụ không còn, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Bà P yêu cầu ly hôn, căn cứ vào Điều 51 và Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình xử cho ly hôn giữa bà Nguyễn Thị Thúy P và ông Phạm Đình H.
[3]. Về con chung: Bà P và ông H không có con chung nên Tòa án không xem xét, giải quyết.
[4]. Về tài sản chung: Bà P và ông H cùng thống nhất trình bầy không có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không giải quyết trong vụ án này.
[5]. Về án phí: Bà Nguyễn Thị Thúy P phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn.
[6]. Về quyền kháng cáo: Bà Nguyễn Thị Thúy P và ông Phạm Đình H có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51, Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội; Xử:
1. Về hôn nhân: Cho bà Phạm Thị Thúy P được ly hôn ông Phạm Đình H.
2. Về con chung: Bà Phạm Thị Thúy P và ông Phạm Đình H không có con chung nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
3. Về tài sản chung: Bà Phạm Thị Thúy P và ông Phạm Đình H không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
4. Về án phí: Bà Phạm Thị Thúy P phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn, được trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0016004 ngày 15 tháng 7 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện T, thành phố Hải Phòng. Bà Nguyễn Thị Thúy P đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.
5. Về quyền kháng cáo: Bà Nguyễn Thị Thúy P và ông Phạm Đình H có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
6. Trường hợp quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 172/2021/HNGĐ-ST ngày 08/09/2021 về ly hôn
Số hiệu: | 172/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 08/09/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về