TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH DƯƠNG
BẢN ÁN 172/2019/HS-PT NGÀY 01/11/2019 VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
Vào ngày 01 tháng 11 năm 2019 tại tr s Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương m phiên toà xét xử phúc thẩm công khai v án hình sự th lý số 189/2019/TLPT- HS ngày 11 tháng 10 năm 2019 đối với bị cáo Danh D. Do có kháng cáo của bị cáo Danh D đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 111/2019/HS-ST ngày 28/08/2019 của Tòa án nhân dân thị xã T tỉnh Bình Dương.
- Bị cáo kháng cáo:
Danh D, sinh năm 1996 tại tỉnh Kiên Giang. Hộ khẩu thường trú: Ấp T, xã V, huyện G, tỉnh Kiên Giang. Trình độ học vấn: 02/12. Nghề nghiệp: Công nhân; dân tộc: Khơme; giới tính: Nam; tôn giáo: Phật giáo; con ông D sinh năm 1973 và bà Nèn U sinh năm 1982; vợ: Đỗ Thị T sinh năm 1997 và có 01 người con sinh năm 2019; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị áp d ng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú (có mặt).
Trong v án còn có 01 bị hại không có kháng cáo kháng nghị nên Tòa án không triệu tập.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ v án và diễn biến tại phiên tòa nội dung v án được tóm tắt như sau:
Danh D và ông Huỳnh Thanh L quen biết nhau do cùng làm công nhân tại Công ty M thuộc khu phố Tân Hội phường Tân Hiệp, thị xã T, tỉnh Bình Dương.
Khoảng 07 giờ ngày 10/11/2018, ông L điều khiển xe mô tô biển số 69N1-121.52 đi từ nhà trọ đến Công ty M để làm việc. Khi đến nơi ông L gửi xe vào bãi giữ xe của công ty rồi đi vào công ty làm việc, cùng thời điểm này Danh D đi bộ từ nhà trọ thuộc phường Tân Hiệp, thị xã T đến Công ty M để làm việc. Khoảng 11 giờ cùng ngày, khi D đang làm việc trong công ty thì người bạn tên C (không rõ nhân thân, lai lịch) gọi điện thoại bảo D cho mượn xe mô tô để C đi lấy đồ quê gửi lên, D đồng ý. Đến khoảng 16 giờ 15 phút cùng ngày, D bảo L cho D mượn xe mô tô 69N1-121.52 để D đi công việc thì L đồng ý và giao xe mô tô biển số 69N1-121.52 cho D. Sau khi mượn được xe, D điều khiển xe 69N1-121.52 đi từ nhà để xe của Công ty M đi ra phía ngoài cổng công ty thì gặp C. Tại đây C bảo D ch C đi đến cây xăng Kim Hằng thuộc phường Khánh Bình, thị xã T để lấy đồ sau đó D điều khiển xe 69N1-121.52 ch C đi đến cây xăng Kim Hằng. Khi đến nơi C không lấy được đồ nên nói D đứng đợi C tại đây và cho C mượn xe 69N1-121.52 để đi tìm lấy đồ. D đồng ý giao xe 69N1- 121.52 cho C. Khoảng 01 giờ sau, không thấy C mang xe 69N1-121.52 trả nên D gọi điện thoại cho C thì C nói cho C mượn xe khoảng 01 tuần. Lúc này, L gọi điện thoại cho D nhưng D không nghe máy, D sợ L bảo D mang xe 69N1- 121.52 về trả. Sau đó, D đi đến huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh để sống và làm việc.
Sau khi cho Danh D mượn xe 69N1-121.52 đến ngày 12/11/2018, ông L không thấy Danh D mang xe 69N1-121.52 về trả nên ông L đến Công an phường Tân Hiệp, thị xã T, tỉnh Bình Dương trình báo v việc. Sau đó Công an phường Tân Hiệp lập hồ sơ ban đầu chuyển hồ sơ v việc cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã T th lý theo thẩm quyền.
Đến ngày 14/11/2018, D gọi điện thoại cho C để yêu cầu C mang xe 69N1-121.52 trả lại cho D. Sau đó C mang xe 69N1-121.52 đến huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh để trả xe 69N1-121.52 cho D. Sau khi C trả xe mô tô 69N1-121.52, D không mang trả lại cho ông L mà nảy sinh ý định sử d ng xe mô tô 69N1-121.52 để làm phương tiện đi lại. Thực hiện ý định, D đi về quê thuộc xã V, huyện G, tỉnh Kiên Giang lấy 01 biển số xe mã 59 của một xe mô tô cũ của nhà D (các số sau D không nhớ) rồi tháo biển số 69N1-121.52 ra và gắn biển số này vào.
Sau khi v việc xảy ra Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã T phối hợp với Công an xã Vĩnh Điều, huyện Giang Thành, tỉnh Kiên Giang để xác minh và mời Danh D đến để làm việc. Đến ngày 28/5/2019, bà Nèn Uol (là mẹ của D) nói cho D biết là Công an xã Vĩnh Điều đến nhà thông báo D chiếm đoạt xe của người khác, nên ngày 29/5/2019, D tháo biển số xe mã 59 ra rồi gắn biển số 69N1-121.52 vào rồi điều khiển xe 69N1-121.52 từ huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh đến phường Tân Hiệp, thị xã T Bình Dương trả xe 69N1-121.52 cho ông L, còn biển số xe mã 59 thì D đã vứt bỏ trên đường đi. Sau đó D đến Cơ quan CSĐT Công an thị xã T khai nhận toàn bộ hành vi chiếm đoạt xe 69N1- 121.52 của ông L. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã T lập biên bản thu giữ 01 xe mô tô biển số 69N1-121.52 (do ông Huỳnh Thanh L giao nộp).
Tại Bản kết luận định giá tài sản trong tố t ng hình sự số: 67/KLTS- TTHS ngày 25/2/2019 của Hội đồng định giá giá trị tài sản Ủy ban nhân dân thị xã T xác định (bút l c số 38): 01 (một) xe mô tô biển số 69N1-121.52 nhãn hiệu Yamaha Sirius màu đỏ đen, giá trị tại thời điểm bị chiếm đoạt là 9.500.000 đồng.
Xe mô tô biển số 69N1 – 121.52 do ông Huỳnh Thanh L đứng tên đăng ký chủ s hữu (bút l c 102). Ngày 03/6/2019 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã T ban hành Quyết định xử lý vật chứng số 151 và trả lại xe mô tô biển số 69N1 – 121.52 cho ông L. Ông L không yêu cầu gì khác. Ngoài ra, bị cáo D còn bồi thường cho ông L 1.000.000 đồng để sửa chữa xe.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 111/2019/HS – ST ngày 28 tháng 8 năm 2019 của Tòa án nhân dân thị xã T tỉnh Bình Dương đã quyết định:
Tuyên bố bị cáo Danh D phạm tội “Lạm d ng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”. Áp d ng điểm a khoản 1 Điều 175; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự. ử phạt bị cáo Danh D 06 (sáu) tháng tù về tội “Lạm d ng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo để thi hành án.
Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí quyền kháng cáo theo quy định.
Ngày 11/9/2019, bị cáo Danh D có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương tham gia phiên tòa trình bày quan điểm giải quyết v án: Về tố t ng bị cáo kháng cáo trong thời gian quy định nên Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương đưa v án ra xét xử phúc thẩm để xem xét giải quyết yêu cầu kháng cáo của bị cáo là có cơ s đúng quy định của pháp luật. Về nội dung Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Danh D về tội “Lạm d ng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” quy định tại điểm a khoản 1 Điều 175 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 là đúng người đúng tội đúng quy định của pháp luật. Tuy nhiên bị cáo phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như: Phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng tài sản đã thu hồi trả lại cho bị hại bị cáo đã bồi thường khắc ph c hậu quả. Về nhân thân: Bị cáo là người Khơme ít học nhận thức pháp luật hạn chế hoàn cảnh gia đình khó khăn phải nuôi vợ con nhỏ và mẹ già. Vì vậy đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo chuyển hình phạt từ tù giam sang án tù cho hư ng án treo và ấn định thời gian thử thách là 01 năm. Giao bị cáo Danh D về Ủy ban nhân dân xã V, huyện G, tỉnh Kiên Giang để giám sát giáo d c trong thời gian thử thách.
Trong lời nói sau cùng bị cáo Danh D xin được hư ng án treo để có điều kiện lao động chăm sóc gia đình.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ s nội dung v án căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ v án đã được tranh t ng tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo Danh D đã khai nhận hành vi phạm tội như sau: Ngày 10/11/2018, tại phường Tân Hiệp, thị xã T, tỉnh Bình Dương Danh D đã lợi d ng sự tin tư ng của ông Huỳnh Thanh L, hỏi mượn xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius màu đỏ đen biển số 69N1 – 121.52 để sử d ng. Sau đó, D thực hiện hành vi chiếm đoạt xe mô tô nêu trên của ông L. Tại thời điểm bị chiếm đoạt, xe mô tô biển số 69N1 – 121.52 giá trị là 9.500.000 đồng. Vì vậy Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo về tội “Lạm d ng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 175 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 là đúng người đúng tội đúng quy định của pháp luật.
[2] Xét kháng cáo của bị cáo Danh D: Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội được nêu trong nội dung bản án sơ thẩm. Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, bị cáo là người dân tộc Khơme trình độ học vấn thấp, tài sản chiếm đoạt đã được bị cáo tự nguyện giao trả cho bị hại và đến đầu thú tại Cơ quan điều tra, bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, bị cáo là lao động chính trong gia đình bị cáo đang nuôi con nhỏ. Đây là tình tiết giảm nhẹ quy định tại các điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Xét thấy hình phạt bản án sơ thẩm đã tuyên đối với bị cáo là tương xứng với tính chất hành vi mức độ phạm tội của bị cáo. Tuy nhiên bị cáo phạm tội nhưng có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 nên không cần bắt bị cáo thi hành hình phạt tù cho bị cáo hư ng án treo theo quy định tại Điều 65 Bộ luật Hình sự cũng đủ phát huy tác d ng giáo d c cải tạo đối với bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội. Vì vậy Hội đồng xét xử thấy có căn cứ để chấp nhận kháng cáo của bị cáo sửa bản án sơ thẩm theo hướng giữ nguyên mức hình phạt tù cho bị cáo được hư ng án treo.
[3] Ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
[4] Các phần khác của quyết định bản án sơ thẩm không có kháng cáo kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật.
[5] Án phí hình sự phúc thẩm: Do kháng cáo của bị cáo Danh D được chấp nhận nên bị cáo không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355 và điểm e khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự;
1. Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Danh D; sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 111/2019/HS – ST ngày 28 tháng 8 năm 2019 của Tòa án nhân dân thị xã T, tỉnh Bình Dương như sau:
- Áp d ng điểm a khoản 1 Điều 175; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65 của Bộ luật Hình sự.
- ử phạt bị cáo Danh D 06 (sáu) tháng tù nhưng cho hư ng án treo thời gian thử thách là 01 năm tính từ ngày tuyên án (ngày 01/11/2019) về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.
Giao bị cáo Danh D về Ủy ban nhân dân xã V, huyện G, tỉnh Kiên Giang để giám sát giáo d c trong thời gian thử thách. Trong trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Luật Thi hành án hình sự.
Trong thời gian thử thách người được hư ng án treo cố ý vi phạm nghĩa v 02 lần tr lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hư ng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hư ng án treo.
2. Về án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Danh D không phải nộp.
3. Các phần khác của quyết định án sơ thẩm không có kháng cáo kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án (ngày 01/11/2019)./.
Bản án 172/2019/HS-PT ngày 01/11/2019 về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Số hiệu: | 172/2019/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Bình Dương |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 01/11/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về