Bản án 172/2019/HNGĐ-ST ngày 29/11/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 172/2019/HNGĐ-ST NGÀY 29/11/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 29 tháng 11 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 952/2019/TLST-HNGĐ ngày 24 tháng 9 năm 2019 về việc “Tranh chấp ly hôn, nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 195/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 28 tháng 10 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 147/2019/QĐST-HNGĐ ngày 13 tháng 11 năm 2019, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Bùi Thị Qu, sinh năm 1991; thường trú: Số MST, Thôn S, xã T L, huyện D L, tỉnh Lâm Đồng. Có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.

- Bị đơn: Anh Sú A S, sinh năm 1986; thường trú: Số 9/2 K3, ấp T V, xã B H, huyện Tr B, tỉnh Đồng Nai; tạm trú: Số NN, đường số B, khu phố B Đ 2, phường A B, thị xã D A, tỉnh Bình Dương. Vắng mặt.

* Người tham gia tố tụng khác:

- Người làm chứng: Chị Bà Hồ Thị Mỹ L, sinh năm 1986; địa chỉ: Lô H1, đường số N, khu phố B Đ 2, phường A B, thị xã D A, tỉnh Bình Dương. Có yêu cầu giải quyết vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện đề ngày 26/8/2019 và lời khai trong quá trình tố tụng nguyên đơn chị Bùi Thị Qu trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Bùi Thị Qu và anh Sú A S có thời gian tìm hiểu khoản 01 năm thì tiến hành tổ chức lễ cưới và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã B H, huyện Tr B, tỉnh Đồng Nai, theo Giấy chứng nhận kết hôn số 65, quyển số 01 cấp ngày 11/7/2010. Sau khi kết hôn, vợ chồng chị Qu cùng sinh sống tại xã B H, huyện Tr B, tỉnh Đồng Nai. Đến tháng 02/2019, vợ chồng chị Qu chuyển lên sinh sống tại địa chỉ số NN, đường số B, khu phố B Đ 2, phường A B, thị xã D A, tỉnh Bình Dương. Thời gian đầu chị Qu và anh S sống rất hạnh phúc. Đến đầu năm 2017, hai bên bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là vợ chồng thường xuyên cãi vả nhau, bất đồng quan điểm sống, không quan tâm chăm sóc lẫn nhau, anh S nghiện ma túy, hai vợ chồng sống ly thân từ đầu 2019 cho đến nay. Nay chị Bùi Thị Qu xác định tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, nên yêu cầu ly hôn với anh Sú A S.

Về con chung: Quá trình chung sống chị Qu và anh S có 01 con chung tên Sú Giang Ph, sinh ngày 05/7/2017. Sau khi ly hôn, chị Bùi Thị Qu yêu cầu là người trực tiếp nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu anh Sú A S thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung: Chị Bùi Thị Qu không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nghĩa vụ chung và nợ chung: Chị Bùi Thị Qu không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Bị đơn anh Sú A S đã được Tòa án tống đạt hợp lệ bằng hình thức niêm yết thông báo thụ lý vụ án và giấy triệu tập bị đơn anh Sú A S yêu cầu cung cấp bản tự khai trình bày ý kiến bằng văn bản đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn vào ngày 11/10/2019 nhưng anh S vắng mặt không lý do và cũng không có ý kiến gì. Tòa án triệu tập anh S tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải vào ngày 28/10/2019 nhưng anh S vắng mặt không lý do và nguyên đơn có đơn xin không tiến hành hòa giải. Vì vậy, vụ án không tiến hành hòa giải được. Vào các ngày 13/11/2019 và ngày 29/11/2019, Tòa án triệu tập anh S tham gia phiên tòa nhưng anh Sy vắng mặt không lý do.

- Người làm chứng chị Hồ Thị Mỹ L trình bày: Chị Linh là bạn của chị Qu, chị L biết được vợ chồng chi Qu thường xuyên cãi vả nhau, anh S không quan tâm chăm sóc vợ con, nghiện ma túy.

- Biên bản xác minh của Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An ngày 25/9/2019 tại UBND phường A B, thị xã D A thể hiện: Hội Liên hiệp phụ nữ phường A B, thị xã D A, tỉnh Bình Dương không tiếp nhận thông tin từ cơ sở phản ánh về mâu thuẫn vợ chồng giữa chị Bùi Thị Qu và anh Sú A S, đồng thời không tiếp nhận đơn yêu cầu hòa giải về quan hệ hôn nhân giữa chị Qu và anh S.

- Ý kiến đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương:

Về thủ tục tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý cho đến tại phiên tòa, Thẩm phán và Hội đồng xét xử chấp hành đúng pháp luật về tố tụng dân sự: Nguyên đơn có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt, bị đơn được triệu tập 02 lần tham gia phiên tòa nhưng đều vắng mặt không lý do. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn là đúng quy định của pháp luật. Về nội dung: Chị Bùi Thị Qu và anh Sú A S tiến đến hôn nhân trên cơ sở tự nguyện tìm hiểu, có đăng ký kết hôn nên là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống vợ chồng có 01 con chung tên Sú Giang Ph, sinh ngày 05/7/2010, vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn. Xét thấy, mâu thuẫn giữa chị Qu và anh S đã kéo dài, không có khả năng hàn gắn, đoàn tụ nên yêu cầu ly hôn của chị Qu là có cơ sở. Và để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của con chung cần giao con chung cho chị Quế trực tiếp nuôi dưỡng sau ly hôn và ghi nhận sự tự nguyện của chị Qu không yêu cầu anh S thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét quyết định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục tố tụng: Nguyên đơn chị Bùi Thị Qu có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt, bị đơn anh Sú A S được triệu tập tham gia phiên tòa hợp lệ 02 lần vào các ngày 13/11/2019 và ngày 29/11/2019 nhưng đều vắng mặt không lý do, căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn là đúng quy định của pháp luật.

[2] Về nội dung:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Bùi Thị Qu và anh Sú A S là vợ chồng, có tổ chức lễ cưới và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã B H, huyện Tr B, tỉnh Đồng Nai, theo Giấy chứng nhận kết hôn số 65, quyển số 01 cấp ngày 11/7/2010 nên quan hệ hôn nhân là hợp pháp. Chị Qu xác định trong quá trình chung sống vợ chồng xảy ra nhiều mâu thuẫn, thường xuyên cãi vả nhau, bất đồng quan điểm sống, không quan tâm chăm sóc lẫn nhau, anh S nghiện ma túy, hai vợ chồng sống ly thân từ đầu 2019 cho đến nay nên chị Qu yêu cầu được ly hôn với anh S. Sau khi Tòa án thụ lý vụ án, Tòa án đã nhiều lần triệu tập anh S đến làm việc nhưng đều vắng mặt không rõ lý do, anh S không đến tham gia phiên hòa giải để hàn gắn tình cảm vợ chồng. Đồng thời, anh S cũng không có văn bản thể hiện thiện chí đưa ra phương án hàn gắn mối quan hệ giữa anh với chị Qu, vì vậy có cơ sở xác định cuộc sống hôn nhân của chị Qu và anh S đã phát sinh nhiều mâu thuẫn, không hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, việc chị Bùi Thị Qu yêu cầu được ly hôn với anh Sú A S là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 51 Luật Hôn nhân và gia đình nên có căn cứ chấp nhận.

[2.2] Về con chung: Chị Bùi Thị Qu và anh Sú A S có 01 con chung tên Sú Giang Ph, sinh ngày 05/7/2017. Tại đơn khởi kiện và trong quá trình tố tụng, chị Qu yêu cầu là người trực tiếp nuôi dưỡng con chung. Xét hiện nay cháu Phi còn nhỏ, đang sống chung cùng với chị Qu, chị Qu có chỗ ở và thu nhập ổn định, nguyện vọng của cháu Ph mong muốn sinh sống với mẹ đồng thời trong suốt quá trình tố tụng anh S không có ý kiến gì về việc tranh chấp nuôi con với chị Qu. Do đó, để bảo đảm quyền lợi về mọi mặt của con chung và quyền lợi của người phụ nữ sau khi ly hôn cần giao cháu Sú Giang Ph cho chị Qu trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc. Ghi nhận sự tự nguyện của chị Bùi Thị Qu không yêu cầu anh Sú A S phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung.

[2.3] Về tài sản chung và nghĩa vụ chung, nợ chung: Chị Bùi Thị Qu không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3] Từ những phân tích nêu trên, yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ chấp nhận. Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương là phù hợp.

[4] Về án phí ly hôn: Chị Bùi Thị Qu phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thương vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, Điều 144, khoản 4 Điều 147, Điều 227; Điều 271 và 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ vào các Điều 51, Điều 56, Điều 81, 82, 83 và Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Bùi Thị Qu đối với anh Sú A S.

Về quan hệ hôn nhân: Chị Bùi Thị Qu được ly hôn với anh Sú A S (Theo Giấy chứng nhận kết hôn số 65, quyển số 01 do Ủy ban nhân dân xã B H, huyện Tr B, tỉnh Đồng Nai cấp ngày 11/7/2010).

Về con chung: Anh Sú A Sy giao con chung tên Sú Giang Ph, sinh ngày 05/7/2017 cho chị Bùi Thị Qu trực tiếp nuôi dưỡng. Ghi nhận sự tự nguyện của chị Bùi Thị Qu không yêu cầu anh Sú A S cấp dưỡng nuôi con chung.

Chị Bùi Thị Qu và anh Sú A S đều có quyền và nghĩa vụ đối với con chung. Vì lợi ích hợp pháp của con chung, theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và vấn đề cấp dưỡng.

Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: Chị Bùi Thị Qu không yêu cầu nên Tòa án không xem xét giải quyết.

2. Về án phí ly hôn sơ thẩm: Chị Bùi Thị Qu phải chịu 300.000 (ba trăm nghìn đồng) đồng án phí ly hôn sơ thẩm, được khấu trừ toàn bộ số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0029314 ngày 24/9/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương.

3. Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

181
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 172/2019/HNGĐ-ST ngày 29/11/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:172/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về