TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG NGÃI
BẢN ÁN 33/2017/HNGĐ-ST NGÀY 20/09/2017 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON CHUNG KHI LY HÔN
Ngày 18 tháng 01 năm 2018 tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Quảng Ngãi xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 338/2017/TLST-HNGĐ ngày 05 tháng 10 năm 2017 về tranh chấp “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 216/2017/QĐXXST-HNGĐ ngày 26 tháng 12 năm2017, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Bà Đinh Thị H, sinh năm 1994, địa chỉ: Đội 1, thôn 1, xã ND, thành phố QN, tỉnh QN, có mặt tại phiên tòa.
2. Bị đơn: Ông Trần Ngọc Duy Q, sinh năm 1983, địa chỉ: Số 45 đường NSL, tổ 24, phường TP, thành phố QN, tỉnh QN, vắng mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện ngày 31-8-2017, đơn khởi kiện, sửa đổi, bổ sung ngày 02-10-2017 và tại phiên tòa sơ thẩm nguyên đơn bà Đinh Thị H trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Bà và ông Trần Ngọc Duy Q tự nguyện tìm hiểu, đăng ký kết hôn vào ngày 02-01-2013 tại UBND phường CL, thành phố QN, tỉnh QN. Vợ chồng sống chung với cha mẹ chồng tại tổ 24, phường TP, thành phố QN, tỉnh QN và có 01 người con chung Trần Thị Bảo N, sinh ngày 15/6/2016. Sau đó vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Lý do cha mẹ chồng không thích bà, còn ông Q thường xuyên đi nhậu về đập phá tài sản và đánh đập bà. Tháng 6/2017 bà ôm con về nhà mẹ đẻ ở, nhưng ông Q không sửa đổi mà còn đánh bà và đập phá tài sản. Nay giữa bà và ông Q không còn tình cảm, bà yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông Trần Ngọc Duy Q.
Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung tên là Trần Thị Bảo N, sinh ngày 15-6-2016 hiện đang ở với ông Q. Khi ly hôn bà H yêu cầu giao cháu N cho bà H chăm sóc, nuôi dưỡng, không yêu cầu ông Trần Ngọc Duy Q cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung: Không có.
Về nợ chung: Không có. Vợ chồng không cho ai vay mượn tài sản gì.
Theo bản tự khai ngày 06-10-2017 bị đơn ông Trần Ngọc Duy Q trình bày: Ông và bà Đinh Thị H tự nguyện đăng ký kết hôn tại UBND phường CL, thành phố QN, tỉnh QN. Trong quá trình chung sống không có mâu thuẫn gì lớn nay ông đồng ý ly hôn với bà Đinh Thị H.
Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là Trần Thị Bảo N, sinh ngày 15-6-2016 hiện đang ở với ông. Khi ly hôn ông yêu cầu giao cháu N cho ông chăm sóc, nuôi dưỡng, không yêu cầu bà H cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung: Không có.
Về nợ chung: Không có. Vợ chồng không cho ai vay mượn tài sản gì.
Tại phiên tòa Kiểm sát viên phát biểu ý kiến: Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Những người tham gia tố tụng: Nguyên đơn chấp hành đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn không chấp hành quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Đinh Thị H. Về quan hệ hôn nhân: Bà Đinh Thị H được ly hôn với ông Trần Ngọc Duy Q. Về con chung:
Giao cháu Trần Thị Bảo N, sinh ngày 15-6-2016 cho bà Đinh Thị H trực tiếp nuôi dưỡng, ông Q không cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung: Không có. Về nợ chung: Không có. Về án phí sơ thẩm: Bà Đinh Thị H phải chịu án phí sơ thẩm trong vụ án ly hôn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về thủ tục tố tụng: Bị đơn ông Trần Ngọc Duy Q đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai vẫn vắng mặt. Theo quy định tại khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử thống nhất vẫn tiến hành xét xử.
[2] Về quan hệ hôn nhân: Bà Đinh Thị H và ông Trần Ngọc Duy Q tự nguyện kết hôn vào ngày 02-01-2013 tại UBND phường CL, thành phố QN, tỉnh QN là hợp pháp. Trong quá trình chung sống, sinh được cháu N vào ngày 15-6-2016, sau đó vợ chồng phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân do ông Q không lo làm ăn, còn thường xuyên uống rượu, bia về đập phá tài sản và có lúc đánh bà H. Ông Q vắng mặt tại phiên tòa nhưng tại bản tự khai ngày 06/10/2017 ông Q trình bày đồng ý ly hôn với bà H. Xét thấy mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Vì vậy, chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà Đinh Thị H. Bà Đinh Thị H được ly hôn với ông Trần Ngọc Duy Q.
[3] Về con chung: Bà H và ông Q có 01 con chung là Trần Thị Bảo N, sinh ngày 15-6-2016, hiện đang ở với ông Q. Bà H và ông Q đều yêu cầu được nuôi con. Xét thấy, cháu N hiện nay chưa đủ 36 tháng tuổi nên cần sự chăm sóc của mẹ. Bà H làm nghề uốn tóc, có thu nhập ổn định. Để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của cháu N, Hội đồng xét xử quyết định giao cháu N cho bà H trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Bà H không yêu cầu ông Q cấp dưỡng nuôi cháu N, Hội đồng xét xử giải thích cho bà H hiểu rằng việc yêu cầu cấp dưỡng nuôi con là quyền lợi của con để bà H biết, nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của con, nhưng bà H vẫn không yêu cầu ông Q cấp dưỡng nuôi con là tự nguyện nên Hội đồng xét xử không buộc ông Q cấp dưỡng nuôi con.
[4] Về tài sản chung: Không có.
[5] Về nợ chung: Không có. Bà H và ông Q cũng không cho ai vay mượn tài sản gì.
[6] Về án phí sơ thẩm: Bà Đinh Thị H phải chịu án phí sơ thẩm 300.000 đồng trong vụ án ly hôn.
[7] Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Với những nhận định trên là phù hợp với ý kiến tại phiên tòa của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Quảng Ngãi.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 58, khoản 1, khoản 2 Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; khoản 1 Điều 28, khoản 1, khoản 2, khoản 3 Điều 144, khoản 4 Điều 147, khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, Điều 235, Điều 271 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án của Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội ngày 30 tháng 12 năm 2016.
Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Đinh Thị H.
1/ Về quan hệ hôn nhân: Bà Đinh Thị H được ly hôn với ông Trần Ngọc Duy Q.
2/ Về con chung: Bà Đinh Thị H và ông Trần Ngọc Duy Q có 01 con chung là Trần Thị Bảo N, sinh ngày 15-6-2016, hiện đang ở với ông Q. Ông Trần Ngọc Duy Q phải giao con Trần Thị Bảo N cho bà Đinh Thị H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con, ông Trần Ngọc Duy Q không phải cấp dưỡng nuôi con.
Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.
3/ Về tài sản chung: Không có.
4/ Về nợ chung: Không có.
5/ Về án phí sơ thẩm: Bà Đinh Thị H phải chịu án phí sơ thẩm 300.000 đồng trong vụ án ly hôn. Được trừ vào số tiền tạm ứng án phí sơ thẩm bà H đã nộp 300.000 đồng, theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số: AA/2014/0004980 ngày 05/10/2017 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Quảng Ngãi.
6/ Về thời hạn kháng cáo: Nguyên đơn có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Trường hợp Bản án được thi hành theo qui định tại Điều 2 của Luật Thi hành án Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 luật Thi hành án Dân sự.
Bản án 03/2018/HNGĐ-ST ngày 18/01/2018 về tranh chấp ly hôn, nuôi con
Số hiệu: | 03/2018/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quảng Ngãi |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 18/01/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về