Bản án 17/2021/HNGĐ-ST ngày 17/05/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẮC QUANG, TỈNH HÀ GIANG

BẢN ÁN 17/2021/HNGĐ-ST NGÀY 17/05/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 17 tháng 5 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 290/2020/TLST-HNGĐ ngày 29 tháng 12 năm 2020 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 12/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 09 tháng 4 năm 2021; Quyết định hoãn phiên tòa số: 12/2021/QĐST-HNGĐ ngày 27 tháng 4 năm 2021, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị L, Sinh năm: 1988; dân tộc: Tày; nơi cư trú: Thôn T, xã M, huyện Q, tỉnh Hà Giang; vắng mặt (Có đơn xin xét xử vắng mặt)

- Bị đơn: Anh Vũ Văn C, sinh năm: 1986; dân tộc: Tày; nơi cư trú: Thôn T, xã M, huyện Q, tỉnh Hà Giang; vắng mặt (Lần hai, không có lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện xin ly hôn và quá trình Tòa án thụ lý giải quyết chị Nguyễn Thị L trình bày: Chị và anh Vũ Văn C kết hôn trên cơ sở tự nguyện không bị ép buộc và có đăng ký kết hôn vào ngày 10/10/2008 tại Ủy ban nhân dân xã M, huyện Q, tỉnh Hà Giang. Sau khi kết hôn vợ chồng sống hạnh phúc được 03 năm thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, tính cách không hợp nhau, anh C không quan tâm và không có trách nhiệm đến gia đình, anh C đi uống rượu về nhà là đánh chị, vợ chồng không tìm được tiếng nói chung nên thường xảy ra mâu thuẫn, cãi chửi và đánh nhau. Bản thân chị đã nhiều lần tha thứ cho anh C nhưng mâu thuẫn vẫn không thay đổi, vợ chồng sống ly thân từ năm 2018 cho đến nay, cả hai không còn quan tâm gì đến nhau nữa, chị nhận thấy rằng tình cảm vợ chồng không còn nữa, có cố níu kéo cũng chỉ làm khổ nhau; vì vậy chị làm đơn này đề nghị Toà án nhân dân huyện Bắc Quang giải quyết cho chị được ly hôn với anh Vũ Văn C và chị L xác định tình cảm vợ chồng không còn, cả hai không quan tâm chăm sóc đến nhau nên đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh C.

Về nuôi con chung: Vợ chồng anh chị có một con chung, tên cháu là Vũ Bảo Tuấn K, sinh ngày 26/11/2006. Khi ly hôn chị L có nguyện vọng được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục cho đến khi cháu K đủ 18 tuổi và không yêu cầu anh C phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, công nợ chung: Chị L xác nhận vợ chồng không có tài sản chung, công nợ chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn anh Vũ Văn C vắng mặt, anh C đã được Tòa án triệu tập hợp L nhiều lần nhưng không đến Tòa án làm việc, không nộp bản tự khai và cũng không cung cấp tài liệu, chứng cứ có liên quan trong vụ án cho Tòa án, Tòa án đã niêm yết văn bản tố tụng tại chính quyền địa phương nơi anh C cư trú, Tòa án đã có biên bản xác minh về tình trạng hôn nhân giữa anh C và chị L cũng như việc anh C cố tình che giấu địa chỉ tại chính quyền địa phương nơi anh C cư trú và Tòa án cũng đã gửi văn bản tố tụng cho người thân của anh C, người thân của anh C đã nhận văn bản tố tụng của Tòa án và đã thông báo cho anh C được biết việc chị L yêu cầu ly hôn anh C, bà Nông Thị Liên là mẹ đẻ của anh C sống chung nhà với anh C cho biết, anh C đi làm ăn xa thi thoảng về nhà rồi lại đi, vào dịp lễ tết anh C về nhà thăm gia đình con cái rồi lại đi, bà Liên đã liên lạc với anh C nhưng anh C vẫn che giấu địa chỉ, trốn tránh nghĩa vụ đối với người khởi kiện. Do vậy căn cứ điểm e khoản 1 Điều 192 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân huyện Bắc Quang vẫn tiến hành thụ lý, giải quyết theo thủ tục chung.

- Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bắc Quang:

+ Về tố tụng: Thẩm phán thụ lý vụ án thu thập chứng cứ, chuẩn bị xét xử và quyết định đưa vụ án ra xét xử đều bảo đảm đúng thời hạn, nội dung, thẩm quyền theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Hội đồng xét xử Thư ký phiên tòa thực hiện đúng trình tự thủ tục đối với phiên tòa dân sự. Nguyên đơn thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình. Bị đơn không thực hiện đúng, đầy đủ nghĩa vụ của bị đơn về việc có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án trong quá trình giải quyết vụ án quy định tại Điều 72 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

+ Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự; các Điều 51, 56, 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30.12.2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí và L phí Tòa án:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị L đối với anh Vũ Văn C về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”.

Về con chung: Giao cháu Vũ Bảo Tuấn K, sinh ngày 26/11/2006 cho chị Nguyễn Thị L trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục, chăm sóc cho đến khi cháu K đủ 18 tuổi. Anh Vũ Văn C không phải cấp dưỡng nuôi con sau khi ly hôn.

Về tài sản chung, công nợ chung: Đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đề nghị xem xét.

Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị L phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, được xem xét tại phiên toà, Tòa án nhận định:

[1] Về tố tụng: Về thẩm quyền giải quyết của Tòa án do chị Nguyễn Thị L có đơn yêu cầu ly hôn, căn cứ khoản 1 Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự đây là tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Thẩm quyền theo cấp xét xử thì Tòa án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền giải quyết tranh chấp về hôn nhân và gia đình theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn anh Vũ Văn C có nơi cư trú là thôn T, xã M, huyện Q, tỉnh Hà Giang, căn cứ điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự thẩm quyền theo lãnh thổ là Tòa án nơi bị đơn cư trú nên Tòa án nhân dân huyện Bắc Quang thụ lý là đúng thẩm quyền.

[2] Về sự vắng mặt của đương sự: Quá trình giải quyết vụ án người thân của anh C nhận văn bản tố tụng của Tòa án và đều thông báo cho anh C, anh C cũng nhận được văn bản tố tụng của Tòa án nhưng anh C vẫn không có mặt và cũng không có ý kiến gì về việc chị L yêu cầu ly hôn. Xét thấy Toà án đã triệu tập hợp L lần thứ hai, bị đơn anh Vũ Văn C vắng mặt tại phiên toà không có lý do, căn cứ vào khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự Toà án tiến hành xét xử vắng mặt anh Vũ Văn C. Nguyên đơn là chị Nguyễn Thị L vắng mặt tại phiên tòa có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt, căn cứ vào khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự Toà án tiến hành xét xử vắng mặt chị Nguyễn Thị L.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Anh Vũ Văn C và chị Nguyễn Thị L tự nguyện kết hôn và có đăng ký kết hôn ngày 10/10/2008 tại Ủy ban nhân dân xã M, huyện Q, tỉnh Hà Giang nên hôn nhân giữa anh C và chị L là hợp pháp.

[4] Xét tình trạng hôn nhân: Quá trình chung sống chị L và anh C phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, vợ chồng không có tiếng nói chung, hai bên không còn có sự tôn trọng, chia sẻ, tạo điều kiện giúp đỡ nhau trong cuộc sống, trong công việc hàng ngày, mỗi lần anh C đi uông rượu về là vợ chồng lại cãi chửi, xúc phạm nhau. Mâu thuẫn đã thường xuyên xảy ra căng thẳng mặc dù đã được gia đình can thiệp hòa giải nhưng vẫn không sửa chữa khắc phục, không cải thiện tốt quan hệ vợ chồng, khả năng đoàn tụ không còn, vợ chồng sống ly thân từ năm 2018 cho đến nay. Tòa án tống đạt văn bản tố tụng hợp L cho anh C nhưng anh C vẫn vắng mặt, không có ý kiến về yêu cầu ly hôn của chị L. Về nguyên nhân mâu thuẫn theo biên bản xác minh ngày 15 tháng 3 năm 2021 thể hiện anh C đi đâu làm gì không báo cho chính quyền địa phương nơi anh C cư trú. Hiện nay anh C và chị L sống ly thân, mỗi người sống và làm việc một nơi, không quan tâm gì đến nhau, quá trình chung sống anh chị có 01 con chung, anh chị không tạo lập được tài sản chung. Chị L xác định không còn tình cảm với anh C, vợ chồng không hòa thuận, không thể tiếp tục chung sống với nhau, kiên quyết xin ly hôn. Trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án, Chị L không tạo điều kiện để tiếp tục chung sống. Cho thấy quan hệ hôn nhân giữa chị L và anh C thật sự lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được, cả hai không quan tâm, chăm sóc đến nhau. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình 2014, chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị L.

[5] Về nuôi con chung: Thời gian chung sống, vợ chồng anh chị có 01 con chung tên là Vũ Bảo Tuấn K, sinh ngày 26/11/2006. Xét thấy, chị L có nguyện vọng được trực tiếp nuôi con chung và không yêu cầu anh C phải cấp dưỡng nuôi con chung, cháu Vũ Bảo Tuấn K có nguyện vọng được sống chung với chị L, quá trình giải quyết vụ án anh C không có mặt nên không có ý kiến gì. Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 2 Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, chấp nhận giao con chung cho chị L được trực tiếp nuôi, chị L không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét. Anh Vũ Văn C được quyền đi lại thăm nom con chung không ai được cản trở anh C thực hiện quyền này.

[6] Về tài sản chung, công nợ chung: Đương sự không yêu cầu giải quyết. Do vậy HĐXX không xem xét.

[7] Về án phí: Chị Nguyễn Thị L phải chịu án phí theo quy định của Nghị quyết quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và L phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, 57, 58, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 điều 147, khoản 1, 3 Điều 228; Điều 271; Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và L phí Tòa án. Xử:

Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận đơn xin ly hôn của chị Nguyễn Thị L.

Chị Nguyễn Thị L được ly hôn anh Vũ Văn C.

Về con chung: Giao cháu Vũ Bảo Tuấn K, sinh ngày 26/11/2006 cho chị Nguyễn Thị L trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi cháu K đủ 18 tuổi. Anh C không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền đi lại thăm nom con, không ai được cản trở người đó thực hiện quyền này. Vì quyền lợi của con chung chị L, anh C có quyền thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

Về án phí: Chị Nguyễn Thị L phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm ly hôn được khấu trừ vào số tiền 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Bắc Quang theo biên lai số 0001323, ngày 29/12/2020.

Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành án theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân dự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Về quyền kháng cáo: Án xử công khai sơ thẩm nguyên đơn, bị đơn có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

170
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 17/2021/HNGĐ-ST ngày 17/05/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:17/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bắc Quang - Hà Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 17/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về