Bản án 17/2019/HS-ST ngày 13/03/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LÀO CAI, TỈNH LÀO CAI

BẢN ÁN 17/2019/HS-ST NGÀY 13/03/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 13/3/2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Lào Cai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 20/2019/HSST ngày 18/02/2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 19 /2019/QĐXXST-HS ngày 01 tháng 3 năm 2019 đối với bị cáo:

La Văn C Sinh năm 1967 (Không xác định được ngày, tháng sinh) tại thành phố L, tỉnh Lào Cai; Nơi cư trú: Tổ 17, phường N, thành phố L, tỉnh Lào Cai; Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá (học vấn) 0/10; dân tộc: Giáy; giới tính: Nam; tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông La Văn P và bà Lý Thị V (đều đã chết); Vợ: Nguyễn Thị Ph sinh năm 1968; Con: có 01 con sinh năm 1998; Tiền án không, tiền sự không. Nhân thân: Năm 1990 bị xét xử về tội “Trộm cắp tài sản của công dân” theo Bản án số 12/HSST ngày 28/9/1990 của Tòa án nhân dân thị xã Lào Cai, năm 1992 bị xét xử về tội “ Trốn khỏi nơi giam” theo Bản án số 12/HSST ngày 25/7/1992 của Tòa án nhân dân huyện Trấn Yên, tỉnh Yên Bái, năm 1999 bị xét xử về tội “Trộm cắp tài sản của công dân” theo Bản án số 24/HSST ngày 17/3/1999 của Tòa án nhân dân tỉnh Lào Cai, năm 2003 bị xét xử về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” theo Bản án số 83/HSST ngày 18/6/2003 của Tòa án nhân dân tỉnh Lào Cai, năm 2012 bị đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, đến năm 2013 thì chấp hành xong quyết định cai nghiện ma túy. Tính đến thời điểm phạm tội này bị cáo đã chấp hành xong các bản án trên và đương nhiên được xóa án tích. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 28/12/2018, hiện đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ Công an thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai, có mặt tại phiên tòa.

- Người làm chứng: Ông Lưu Văn H, sinh năm 1960, trú tại tổ 15, phường C, thành phố L, tỉnh Lào Cai, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 06 giờ 00 phút ngày 28/12/2018, La Văn C đi từ nhà đến khu vực thôn 2, xã Đ, thành phố L mua của một người phụ nữ (không biết tên, tuổi, địa chỉ) 04 gói ma túy với giá 400.000 đồng để sử dụng. Sau khi mua được ma túy, bị cáo cất giấu số ma túy vào trong túi quần dài phía trước bên trái đang mặc và đi bộ đến chỗ người lái xe ôm bảo chở đến khu vực cổng chợ C thuộc tổ 1, phường C, thành phố L để tìm nơi sử dụng, khi đang đứng ở ven đường thì bị tổ công tác Công an phường C yêu cầu kiểm tra. La Văn C đã tự giác giao nộp cho tổ công tác số ma túy đang cất giữ và chấp hành việc lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và niêm phong vật chứng theo quy định của pháp luật.

Ti Kết luận giám định số 45/GĐMT ngày 03/01/2019 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lào Cai kết luận: 0,22 gam chất bột khô, màu trắng, vón cục gửi giám định là loại chất ma túy Heroine (Hêrôin). Cơ quan giám định đã trích mẫu 0,05 gam, còn 0,17 gam hoàn lại cơ quan đã trưng cầu.

Cáo trạng số 22/CT-VKSTPLC ngày 18/02/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lào Cai truy tố La Văn C về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bé luËt h×nh sù năm 2015.

Kiểm sát viên tham gia phiên tòa trình bày lời luận tội giữ nguyên quan điểm như cáo trạng truy tố và có ý kiến đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố La Văn C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo với mức án từ 01 năm 03 tháng đến 01 năm 06 tháng tù, không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Về vật chứng áp dụng áp dụng Điều 47 khoản 1 điểm c Bộ luật hình sự, Điều 106 khoản 2 điểm a Bộ luật tố tụng hình sự tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau trích mẫu.

Tại phiên tòa, bị cáo La Văn C đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình như Cáo trạng đã truy tố và xác nhận do bản thân nghiện chất ma túy nên đã mua Hêrôin để sử dụng. Đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Người làm chứng là ông Lưu Văn H vắng mặt, tuy nhiên tại các bản khai có trong hồ sơ đều xác nhận sự việc đúng như bị cáo đã trình bày.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Lào Cai, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lào Cai, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo La Văn C đều thừa nhận hành vi phạm tội của mình như cáo trạng truy tố. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của người làm chứng, biên bản phạm tội quả tang, kết luận giám định và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, do vậy có đủ cơ sở khẳng định:

Ngày 28/12/2018 bị cáo La Văn C đã có hành vi mua 0,22 gam Heroine của một người phụ nữ không quen biết tại khu vực thôn 2, xã Đ, thành phố L để sử dụng. Với khối lượng 0,22 gam Heroine mà bị cáo đã tàng trữ đã có đủ cơ sở kết luận bị cáo phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, Hội đồng xét xử xét thấy:

Bị cáo có nhân thân xấu, từ năm 1990 đến năm 2003 đã bị kết án 4 lần về các tội khác nhau và bị bắt buộc đi cai nghiện ma túy một lần vào năm 2012. Tính đến thời điểm phạm tội này bị cáo đã chấp hành xong các bản án trên và quyết định cai nghiện bắt buộc, do vậy đương nhiên được xóa án tích và được coi như chưa có tiền án, tiền sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, trong suốt quá trình điều tra, truy tố, xét xử luôn có thái độ thật thà khai báo, bị cáo là người dân tộc thiểu số, trình độ nhận thức pháp luật còn hạn chế. Do vậy cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm tới chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về ma túy do vậy cần phải có một mức án phù hợp với quy định của pháp luật. Xét tính chất, mức độ mà hành vi bị cáo đã gây ra Hội đồng xét xử xét thấy cần phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để giáo dục bị cáo đồng thời có tính răn đe phòng ngừa chung.

[3]. Về hình phạt bổ sung: Tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5 triệu đồng đến 500 triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”. Tuy nhiên quá trình điều tra và tại phiên tòa đã xác định bị cáo không có tài sản riêng nên không phạt tiền hoặc tịch thu một phần tài sản là phù hợp.

[4].Về vật chứng của vụ án: Đối với số ma túy mà phòng kỹ thuật hình sự đã hoàn lại cơ quan trưng cầu 0,17 gam Heroine, là vật cấm lưu hành cần tịch thu, tiêu hủy.

[5]. Về nguồn gốc số ma túy bị cáo khai đã mua của một người phụ nữ không quen biết, quá trình điều tra và tại phiên tòa không làm rõ được lai lịch, địa chỉ của người này do vậy không đề cập xử lý là có cơ sở.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Tuyên bố bị cáo La Văn C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015;

Xử phạt bị cáo La Văn C 12 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 28/12/2018.

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; Điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

+ Tịch thu, tiêu hủy 0,17 gam Hêrôin còn lại sau trích mẫu được niêm phong trong 01 bì thư của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lào Cai ghi “Vật chứng còn lại sau trích mẫu giám định thu trong vụ La Văn C có hành vi phạm tội về ma túy. Phát hiện thu giữ ngày 28/12/2018 tại tổ 01, phường C, thành phố L”.

Xác nhận các vật chứng trên cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Lào Cai đã chuyển giao sang Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Lào Cai theo nội dung biên bản giao, nhận vật chứng ngày 20/02/2019.

Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH quy định về án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo La Văn C phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm, bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

209
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 17/2019/HS-ST ngày 13/03/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:17/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Lào Cai - Lào Cai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về