Bản án 17/2019/HS-ST ngày 11/07/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỸ LỘC, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 17/2019/HS-ST NGÀY 11/07/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 11 tháng 7 năm 2019 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 16/2019/TLST-HS ngày 31 tháng 5 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 16/2019/QĐXXST- HS ngày 27 tháng 6 năm 2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Quang S, sinh năm 1973 tại xã L, huyện T, tỉnh Thái Bình.

Nơi cư trú: Thôn Đ, xã L, huyện T, tỉnh Thái Bình; nghề nghiệp: Tự do; trình độ văn hoá: 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Quang M và bà Trần Thị H; có vợ Trần Thị T đã ly hôn và 02 con; tiền án: Bản án số 18/2016/HSST ngày 29/3/2016 Toà án nhân dân huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình xử phạt 30 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”; tiền sự: Không; nhân thân: Bản án hình sự sơ thẩm số 236/HSST ngày 22/9/2006 của Toà án nhân dân thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” đã được xoá án. Bản án số 09/2008/HSST ngày 31/01/2008 của Toà án nhân dân huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” đã được xoá án; bị bắt, tạm giam ngày 01 tháng 5 năm 2019; có mặt.

- Người làm chứng: Anh Trần Văn M.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 23 giờ 30 phút ngày 30 tháng 4 năm 2019, Công an xã T làm nhiệm vụ tuần tra trên Quốc lộ 10 khu vực cầu Đ thuộc địa phận thôn P, xã T, huyện L, tỉnh Nam Định thì phát hiện Nguyễn Quang S đang điều khiển xe đạp điện có biểu hiện nghi vấn nên yêu cầu kiểm tra. Quá trình kiểm tra, S đã thả xuống đất một gói nilon màu trắng. Công an yêu cầu S nhặt gói nilon để kiểm tra thấy bên trong có chứa các hạt tinh thể màu trắng (S khai là ma tuý mua về để sử dụng). Công an đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với S và thu giữ niêm phong vật chứng theo quy định. Ngoài ra còn thu giữ của S chiếc xe đạp điện cùng với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Mobell cũ.

Khám xét khẩn cấp nơi ở, đồ vật của S tại thôn Đ, xã L, huyện T, tỉnh Thái Bình không thu giữ gì.

Bản kết luận giám định số 421/GĐKTHS ngày 02 tháng 5 năm 2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định kết luận: Mẫu rắn dạng tinh thể màu trắng trong 01 gói nilon màu trắng được niêm phong gửi giám định là ma tuý. Loại ma tuý: Ketamine. Khối lượng mẫu: 0,536 gam.

Tại cơ quan điều tra, S khai nhận toàn bộ hành vi của mình như đã nêu trên. Về nguồn gốc số ma tuý, S khai mua của người không quen biết ở khu vực đê thuộc địa bàn xã T với giá 190.000 đồng nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để xác minh làm rõ đối tượng bán ma tuý cho S.

Chiếc xe đạp điện S sử dụng để đi mua ma tuý, quá trình điều tra xác định là tài sản hợp pháp của bà Trần Thị H (mẹ S) ở thôn Đ xã L, huyện T, tỉnh Thái Bình. Bà H không biết việc S sử dụng xe của mình đi mua ma tuý nên Cơ quan điều tra đã trả lại chiếc xe này cho bà H.

Bản cáo trạng số 16/CT-VKS-ML ngày 29 tháng 5 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định đã truy tố bị cáo Nguyễn Quang S về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự; xác định bị cáo không có tình tiết tăng nặng, được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là “Thành khẩn khai báo” quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà, bị cáo Nguyễn Quang S khai nhận: Việc không làm chủ được bản thân nên mắc nghiện và đi mua ma tuý về sử dụng là vi phạm pháp luật; bản kết luận giám định đối với gói ma tuý bị Công an thu giữ là đúng; Viện kiểm sát truy tố không oan nên không có thắc mắc gì. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố Nhà nước phát biểu quan điểm luận tội: Giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo theo nội dung bản cáo trạng; đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Quang S phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”; căn cứ áp dụng điểm a khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự đề nghị xử phạt bị cáo từ 18 đến 24 tháng tù; căn cứ áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự để xử lý vật chứng đã thu giữ. Bị cáo không bào chữa, có lời nói sau cùng đề nghị Hội đồng xét xử chiếu cố đến hoàn cảnh gia đình, xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Mỹ Lộc cũng như Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Mỹ Lộc cũng như Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên toà bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Xét thấy lời khai bị cáo tại phiên toà phù hợp với các chứng cứ đã thu thập trong hồ sơ vụ án như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang; bản kết luận giám định chất ma tuý; lời khai người làm chứng cũng như toàn bộ lời khai bị cáo tại cơ quan điều tra. Từ các tình tiết chứng cứ này đã có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 23 giờ 30 phút ngày 30 tháng 4 năm 2019, tại khu vực cầu Đ, xã T, huyện L, tỉnh Nam Định. Công an xã T, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định bắt quả tang Nguyễn Quang S đang nắm giữ trái phép 0,536 gam Ketamine. Do bị cáo đã bị kết án về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” chưa được xoá án tích nên Viện kiểm sát nhân dân huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Về tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Quang S là nguy hiểm cho xã hội. Bị cáo đã xâm phạm đến chế độ quản lý các chất ma tuý của Nhà nước. Đây là khách thể được pháp luật nghiêm cấm các hành vi tàng trữ, vận chuyển và mua bán trái phép. Ma tuý hiện đang là hiểm hoạ của nhân loại bị xã hội lên án và loại trừ, bởi nó là nguyên nhân dẫn đến sự tha hoá về đạo đức, suy thoái về giống nòi, là nguy cơ tiềm ẩn làm phát sinh ra các loại tội phạm khác. Bản thân bị cáo là người đã trưởng thành, bình thường về thể chất và tâm thần, nhận thức rõ được tác hại của ma tuý bị pháp luật nghiêm cấm, mặt khác năm 2016 bị cáo đã bị Toà án xử phạt 30 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” thì lẽ ra bị cáo phải lấy đó làm bài học răn mình để không chỉ đoạn tuyệt với ma tuý mà còn phải có trách nhiệm tuyên truyền, giáo dục cho gia đình, xã hội. Song trái lại, với lối sống buông thả, không chịu rèn luyện tu dưỡng nên bị cáo không từ bỏ mà vẫn tiếp tục sử dụng ma tuý và hậu quả tất yếu là lại dấn thân vào con đường phạm tội. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự nên sẽ phải hoà toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi phạm tội của mình.

[4] Về trách nhiệm hình sự: Xét tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi, khách thể được pháp luật Nhà nước bảo hộ bị xâm phạm, động cơ mục đích phạm tội của bị cáo, hậu quả nguy hại cho xã hội thì đối với bị cáo cần phải áp dụng biện pháp giáo dục nghiêm bằng cách cách ly xã hội một thời gian nhất định thì mới có thể cải tạo, giáo dục được thành công dân có ích; đồng thời cũng mới đáp ứng được yêu cầu răn đe, giáo dục phòng ngừa chung. Tuy nhiên, xét thấy hành vi phạm tội của bị cáo không có tình tiết nào bị coi là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; quá trình khai báo bị cáo thành khẩn, nhận thức lỗi lầm ăn năn hối cải, đó là tình tiết được Hội đồng xét xử xem xét vận dụng quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo được hưởng chính sách khoan hồng của pháp luật Nhà nước. Xét mức án Viện kiểm sát đề nghị cần áp dụng đối với bị cáo là có căn cứ, Hội đồng xét xử chấp nhận với đề nghị này và sẽ ấn định một mức án cụ thể đủ để cải tạo, giáo dục bị cáo hoàn lương trở về với cuộc sống cộng đồng.

[5] Về hình phạt bổ sung: Xét bản thân bị cáo là người mắc tệ nạn nghiện ma tuý; mục đích tàng trữ ma tuý chỉ để sử dụng nhằm thoả mãn nhu cầu bản thân, không có mục đích kiếm lời nên Hội đồng xét xử miễn hình phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về vật chứng của vụ án: Số ma tuý sau khi được Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định kết luận giám định hoàn trả là Ketamine bị Nhà nước nghiêm cấm nên cần phải tịch thu để tiêu huỷ.

Đối với chiếc điện thoại di động Mobell cũ thu giữ được xác định là tài sản hợp pháp của bị cáo, không liên quan đến việc thực hiện hành vi phạm tội nên cần được trả lại cho bị cáo là phù hợp. Tuy nhiên cần phải bảo thủ để đảm bảo cho việc thi hành án về án phí.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định tại Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự;

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Quang S phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”. Xử phạt bị cáo S 18 (mười tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, ngày 01 tháng 5 năm 2019.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự;

Tịch thu tiêu huỷ toàn bộ số ma tuý là vật chứng của vụ án đã được Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định hoàn lại sau khi kết luận giám định và niêm phong số 421/GĐKTHS theo Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản lập ngày 30 tháng 5 năm 2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định.

Trả lại bị cáo Nguyễn Quang S 01 điện thoại di động Mobell cũ theo Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản lập ngày 30 tháng 5 năm 2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định nhưng bảo thủ để đảm bảo thi hành án.

3. Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội;

Bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì bị cáo có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án. Thời hạn thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

196
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 17/2019/HS-ST ngày 11/07/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:17/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mỹ Lộc - Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về