Bản án 17/2019/HNGĐ-ST ngày 29/08/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÀ TRUNG, TỈNH THANH HOÁ

BẢN ÁN 17/2019/HNGĐ-ST NGÀY 29/08/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 29 tháng 8 năm 2019, tại Hội trường Toà án nhân dân huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hoá xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 79/2019/TLST-HNGĐ ngày 22 tháng 5 năm 2019 về tranh chấp: Ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 18/2019/QĐXX-ST ngày 08 tháng 7 năm 2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Lê Thị T - Sinh năm 1992

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Trung Th - Sinh năm 1980

Cùng địa chỉ: Thôn H, xã H, huyện H, tỉnh Thanh Hoá

Tại phiên toà vắng mặt chị T và anh Th.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Ti đơn khởi kiện ngày 29/3/2019 và trong quá trình xét xử, nguyên đơn chị Lê Thị T trình bày:

- Về hôn nhân: Chị và anh Nguyễn Trung Th kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có tìm hiểu, có tổ chức và được UBND xã Thành Tâm, huyện Thạch Thành, tỉnh Thanh Hóa cấp giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 19/3/2012. Sau khi cưới vợ chồng sống hạnh phúc đến tháng 8/2018 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do chị phát hiện anh Th bị nghiện ma tuý, chị đã nhiều lần khuyên ngăn nhưng anh Th vẫn tiếp tục sử dụng ma tuý, do đó mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng. Từ tháng 02/2019 đến nay chị đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ để sinh sống, từ đó vợ chồng chị sống ly thân và không quan tâm đến nhau. Nay chị xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên xin được ly hôn anh Th.

- Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung là cháu: Nguyễn Thị Ngọc Á - Sinh ngày 14/01/2013; Nguyễn Ánh N - Sinh ngày 19/7/2014.

Hiện nay các cháu khỏe mạnh bình thường và đang ở với chị T.

Ly hôn chị muốn trực tiếp được nuôi dưỡng cả 02 cháu Á và N. Chị không yêu cầu anh Th cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị.

- Về tài sản: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Ti bản tự khai ngày 29/5/2019 và tại biên bản hoà giải anh Nguyễn Trung Th trình bày:

- Về hôn nhân: Anh và chị Lê Thị T kết hôn tự nguyện và được Uỷ ban nhân dân xã Thành Tâm, huyện Thạch Thành, tỉnh Thanh Hoá cấp giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 19/03/2012. Sau khi kết hôn hai vợ chồng về chung sống hạnh phúc đến đầu năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do anh làm ăn thua lỗ dẫn đến vợ chồng thường xuyên cãi vã nhau, hơn nữa do anh đi làm ăn xa ngoài Hà Nội nên tình cảm vợ chồng xa cách. Từ tháng 02/2019 cô T đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ để sinh sống, vợ chồng sống ly thân từ đó đến nay và không còn quan tâm đến nhau. Nay cô T làm đơn xin ly hôn anh xét thấy tình cảm vợ chồng không còn nên đề nghị Toà án giải quyết cho anh được ly hôn cô T.

- Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung là cháu: Nguyễn Thị Ngọc Á - Sinh ngày 14/01/2013 và Nguyễn Ánh N - Sinh ngày 19/7/2014.

Ly hôn anh muốn được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Á, giao cháu N để cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng. Anh không yêu cầu chị T cấp dưỡng nuôi con chung cùng anh.

Về tài sản: Anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Tại biên bản làm việc với ông Nguyễn Văn V - Trưởng thôn Hoàng Vân, xã Hà Long cho biết: Anh Th và chị T có quan hệ vợ chồng, tuy nhiên anh Th chị T đã sống ly thân từ đầu năm 2019 cho đến nay, chị T hiện đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ để sinh sống. Anh chị có 02 con chung, hiện các cháu đã theo mẹ về nhà ông bà ngoại để sinh sống. Anh Th hiện đang làm lao động tự do, anh bị nghiện ma tuý và là đổi tượng thuộc diện được uống thuốc metalnol của trạm y tế xã, tuy nhiên anh Th đã bỏ uống thuốc 02 tháng nay không rõ lý do.

* Theo Công an xã Hà Long cho biết anh Th tại địa phương là đối tượng nghiện ma túy lâu năm và thuộc diện phải uống thuốc metalnol tại trạm y tế xã.

* Theo Trạm y tế xã Hà Long và bà Nguyễn Thị N - phụ trách phòng metalnol xã Hà Long cho biết anh Th thuộc diện uống thuốc metalnol, hiện tại anh Th uống thuốc metalnol tại Trung tâm y tế xã từ ngày 23/02/2019 đến ngày 07/4/2019 thì anh Th bỏ uống thuốc không lý do. Theo quy định thì thời gian anh Th uống thuốc cai nghiện là chưa đủ và chưa thể cắt cơn và cai nghiện được.

Tại phiên Toà, Đại diện Viện kiểm sát có quan điểm: Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên toà Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã tiến hành theo đúng quy định của pháp luật. đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận đơn của chị T, xử cho ly hôn giữa chị T và anh Th, về con chung giao hai cháu Nguyễn Thị Ngọc Á và Nguyễn Ánh N cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng, anh Th không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị T.

Tại phiên tòa hôm nay chị T giữ nguyên toàn bộ yêu cầu khởi kiện, các bên không thỏa thuận với nhau về giải quyết toàn bộ vụ án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về thủ tục tố tụng: Bị đơn là anh Nguyễn Trung Th không có mặt tại phiên tòa, Tòa án đã tiến hành tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng theo đúng thủ tục và phiên tòa cũng được hoãn lần thứ nhất. Chị T có đơn xin xét xử vắng mặt. Do vậy căn cứ điểm a, b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, Điều 238 của Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt anh Th và chị T.

[2] Về hôn nhân: Chị Lê Thị T và anh Nguyễn Trung Th kết hôn với nhau năm 2012 trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn là hôn nhân hợp pháp.

Cả anh và chị đều thống nhất, mâu thuẫn vợ chồng phát sinh từ tháng 8/2018, nguyên nhân mâu thuẫn là do chị phát hiện anh Th bị nghiện ma tuý, làm ăn thua lỗ nên vợ chồng thường xuyên cải nhau. Vợ chồng chị đã sống ly thân từ tháng 02/2019 cho đến nay và không còn quan tâm đến nhau. Xét thấy tình cảm vợ chồng không còn nên anh và chị đều xin được ly hôn.

Tòa án đưa ra hòa giải lần hai nhưng anh Th không có mặt nên không tiến hành hòa giải để vợ chồng đoàn tụ được và tại phiên tòa anh vẫn không có mặt.

Theo quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình thì vợ chồng phải có nghĩa vụ thương yêu, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau xây dựng cuộc sống, hạnh phúc gia đình, ở đây chị T và anh Th đã Th sự không còn tình cảm với nhau, mặt khác anh chị đều xét thấy tình cảm vợ chồng không còn nên đều xin được ly hôn. Do đó nếu buộc anh chị về đoàn tụ thì cuộc sống vợ chồng cũng khó cải thiện được. Nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị T và căn cứ Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình xử cho chị T được ly hôn anh Th là phù hợp.

[3] Về con: Vợ chồng đều thống nhất có 02 con chung là: Nguyễn Thị Ngọc Á - Sinh ngày 14/01/2013 và Nguyễn Ánh N - Sinh ngày 19/7/2014.

Nay vợ chồng ly hôn, nguyện vọng của chị T là muốn trực tiếp được nuôi dưỡng cả 02 cháu Á và N. Nguyện vọng của anh Th là muốn được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Á, còn cháu N giao cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng.

Xét thấy nguyện vọng được nuôi con của anh, chị là hoàn toàn chính đáng. Tuy nhiên việc giao con cho ai nuôi cần phải xem xét mọi mặt về quyền lợi của con chưa thành niên.

Hi đồng xét xử thấy rằng hiện nay anh Th nghiện ma tuý, thời gian anh Th uống thuốc chưa đủ để cai nghiện và cắt cơn. Hơn nữa, hiện tại anh không có công việc ổn định, còn chị T hiện đang làm công nhân tại công ty VENUS Việt Nam với mức lương 5.000.000 đồng/tháng. Nên việc giao con chung cho anh Th trực tiếp nuôi dưỡng là không đảm bảo cho sự phát triển về thể chất, tinh thần và tâm sinh lý, cũng như sinh hoạt của các cháu. Ngoài ra hai cháu là con gái cần sự chăm sóc của mẹ hơn nữa từ khi vợ chồng sống ly thân hai cháu vẫn ở với chị T và phát triển bình thường. Do vậy cần áp dụng Điều 81 và 82 Luật HN&GĐ giao cả 02 cháu Á và cháu N cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp.

Về cấp dương nuôi con: Do chị T không yêu cầu anh Th cấp dưỡng tiền nuôi con chung và không yêu cầu Toà án giải quyết. Nên Hội đồng xét xử không buộc anh Th phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị T.

[4] Về tài sản: Các đương sự không yêu cầu giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về án phí: Chị Lê Thị T là nguyên đơn trong vụ án nên buộc chị T phải chịu án phí dân sự hôn nhân gia đình sơ thẩm là 300.000đ.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; điểm a, b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228; Điều 238; khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí Tòa án.

1. Về hôn nhân:

Cho ly hôn giữa chị Lê Thị T và anh Nguyễn Trung Th.

2. Về nuôi con chung: Công nhận vợ chồng có 02 con chung là:

- Nguyễn Thị Ngọc Á - Sinh ngày 14 tháng 01 năm 2013;

- Nguyễn Ánh N - Sinh ngày 19 tháng 7 năm 2014.

2.1. Giao con chung Nguyễn Thị Ngọc Á và Nguyễn Ánh N cho chị Lê Thị T trực tiếp nuôi dưỡng.

2.2. Anh Nguyễn Trung Th không phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị T.

2.3. Anh Th có quyền thăm nom con chung, không ai được cản trở.

3. Về chia tài sản: Chị T, anh Th không yêu cầu Tòa án giải quyết.

4. Về án phí: Chị Lê Thị T phải chịu 300.000đ tiền án phí dân sự sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị đã nộp 300.000đ theo biên lai thu tiền số 0000379 ngày 16/5/2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Hà Trung. Chị T đã nộp đủ.

Trường hợp bản án được thi hành tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6; 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu Thi hành án được Th hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

5. Về quyền kháng cáo: Chị T, anh Th có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

229
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 17/2019/HNGĐ-ST ngày 29/08/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:17/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hà Trung - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về