Bản án 17/2019/HNGĐ-ST ngày 25/07/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ BUÔN HỒ, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 17/2019/HNGĐ-ST NGÀY 25/07/2019 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 25-7-2019, tại phòng xử án Toà án nhân dân thị xã Buôn Hồ mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 27/2019/TLST-HNGĐ ngày 21 tháng 02 năm 2019, về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”, theo quyết định đưa vụ án ra xét số 18/2019/QĐST-HNGĐ ngày 19/6/2019 và quyết định hoãn phiên tòa số 13/2019 ngày 08/7/2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Lê Thị Minh Ng; địa chỉ: Số X đường Y, tổ dân phố Z, phường A, thị xã B, tỉnh Đắk Lắk. (có mặt)

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Duy Hải B; địa chỉ: Số M đường N, tổ dân phố P, phường BT, thị xã B, tỉnh Đắk Lắk. (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 11/02/2019 và các lời khai tại Tò, nguyên đơn chị Lê Thị Minh Ng trình bày:

- Về hôn nhân: Tôi và anh B tự nguyện đăng kết hôn ngày 08-a4-2016 tại UBND phường BT, thị xã B, tỉnh Đắk Lắk. Trong quá trình chung sống, thời gian đầu vợ chồng tôi sống hạnh phúc, tuy nhiên đến tháng 6 năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn trầm trọng, nguyên nhân là do hai vợ chồng sống không hợp nhau, không cùng quan điểm sống, chúng tôi thường xuyên cãi vã nhau vì những nguyên cớ lý do nhỏ nhặt, hiện nay tôi và anh B đã sống ly thân nhau từ tháng 6/2018 đến nay. Nay tôi xét thấy tình cảm vợ chồng không còn nên xin được ly hôn với anh Nguyễn Duy Hải B.

Về con chung: Có 01 con chung Nguyễn Duy Bảo Kh, sinh ngày 13-01- 2017 hiện nay cháu đang ở với tôi, nay tôi có nguyện vọng được chăm sóc, nuôi dưỡng con chung đến tuổi thành niên.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Tôi không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản: Tôi không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn anh Nguyễn Duy Hải B đã được triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vẫn cố tình vắng mặt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Buôn Hồ phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của thẩm phán, hội đồng xét xử, thư ký, những người tham gia tố tụng kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm hội đồng xét xử nghị án tại phiên tòa đã tuân thủ đúng trình tự, thủ tục và các quy định của pháp luật, bị đơn không thực hiện đúng các quy định tại Điều 70, 72 Bộ luật tố tụng dân sự.

Về giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn.

Tại phiên tòa chị Lê Thị Minh Ng vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu xem xét các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận thấy:

[1] Về khởi kiện và thụ lý vụ án: Ngày 11- 02-2019 chị Lê Thị Minh Ng nộp đơn khởi kiện, ngày 21- 02-2019 Tòa án thụ lý việc khởi kiện của Chị Ng là đúng trình tự thủ tục theo điều 191, điều 195 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về thẩm quyền giải quyết: Đây là quan hệ pháp luật tranh chấp về hôn nhân và gia đình theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án và tranh chấp này thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã Buôn Hồ theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[3] Về trình tự thủ tục tố tụng: Bị đơn anh Nguyễn Duy Hải B vắng mặt lần thứ hai không có lý do, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt anh B là phù hợp với điểm b khoản 2 điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự.

[4] Veà quan hệ hôn nhân: Chị Ng và anh B tự nguyện đăng ký kết hôn ngày 08-4-2016 tại UBND phường BT, thị xã B, tỉnh Đắk Lắk là hôn nhân hợp pháp. Trong quá trình chung sống, thời gian đầu vợ chồng chị Ng, anh B sống hạnh phúc, tuy nhiên đến tháng 6 năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn trầm trọng, nguyên nhân là do hai vợ chồng sống không hợp nhau, không cùng quan điểm sống, thường xuyên cãi vã nhau vì những nguyên cớ lý do nhỏ nhặt, hiện nay chị Ng và anh B đã sống ly thân nhau từ tháng 6/2018 đến nay không ai quan tâm đến ai, tại biên bản xác minh tại địa phương thể hiện chị Ng, anh B xảy ra mâu thuẫn chính quyền địa phương không nắm được vì khi phát sinh mâu thuẫn không báo cáo với chính quyền địa phương để can thiệp, nhưng hiện nay chị Ng và anh B đã sống ly thân nhau từ tháng 01/2019 cho đến nay. Như vậy, Hội đồng xét xử xét thấy mâu thuẫn vợ chồng giữa chị Lê Thị Minh Ng và anh Nguyễn Duy Hải B đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên cho chị Lê Thị Minh Ng được ly hôn với anh Nguyễn Duy Hải B là phù hợp với khoản 1 điều 51, Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

[5] Về nuôi con chung và cấp dưỡng:

[5.1] Về nuôi con chung: Chị Ng, anh B có 01 con chung là cháu Nguyễn Duy Bảo Kh, sinh ngày 13- 01-2017 hiện nay cháu đang ở với chị Ng, nay chị Ng có nguyện vọng được chăm sóc, nuôi dưỡng đến tuổi thành niên, vì vậy cần giao cho chị Ng trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Kh cho đến tuổi thành niên là phù hợp với các Điều 58;81;82;83 và 84 Luật Hôn nhân và gia đình.

[5.2] Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Ng không yêu cầu nên Tòa án không xem xét giải quyết.

[6] Về tài sản: Chị Ng không yêu cầu nên Tòa án không xem xét giải quyết.

[7] Xét quan điểm của đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ nên cần chấp nhận.

[8] Về án phí: Chị Lê Thị Minh Ng phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 144; 147; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.

- Căn cứ khoản 1 Điều 51; các điều 56; 58; 81; 82; 83 và Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình.

- Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH12 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận đơn khởi kiện của nguyên đơn chị Lê Thị Minh Ng. Chị Lê Thị Minh Ng được ly hôn với anh Nguyễn Duy Hải B.

2.Về con chung: Giao con chung Nguyễn Duy Bảo Kh, sinh ngày 13-01-2017 cho chị Ng trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục cho đến khi cháu Kh đủ tuổi thành niên. Anh Nguyễn Duy Hải B có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

3.Về cấp dưỡng nuôi con chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

4.Về tài sản: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

5. Về án phí: Chị Lê Thị Minh Ng phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm được khấu trừ 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số AA/2017/0011371 ngày 20/02/2019 tại Chi cục thi hành án dân sự thị xã Buôn Hồ.

Nguyên đơn có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận bản án hoặc ngày niêm yết bản án hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

145
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 17/2019/HNGĐ-ST ngày 25/07/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:17/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Buôn Hồ - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 25/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về