Bản án 17/2019/HNGĐ-ST ngày 23/05/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN NGÔ QUYỀN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 17/2019/HNGĐ-ST NGÀY 23/05/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 23 tháng 5 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 122/2019/TLST-HNGĐ ngày 29 tháng 3 năm 2019 về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 278/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 07 tháng 5 năm 2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Triệu L; nơi ĐKHKTT: Số 6/200 đường V, phường Đ, quận N, thành phố Hải Phòng; nơi tạm trú: Số 19/75 đường M, phường M, quận N, thành phố Hải Phòng; có mặt.

- Bị đơn: Anh Lương Đại D; nơi ĐKHKTT: Số 6A19 đường A, phường Đ, quận N, thành phố Hải Phòng. Hiện đang chấp hành án tại Trại giam X; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện đề ngày 24/3/2019 và quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Triệu L trình bày: 

Chị Nguyễn Thị Triệu L và anh Lương Đại D lấy nhau trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Đằng Giang, quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng ngày 29/7/2013. Đến nay vợ chồng có một con chung là Lương Gia Bảo, sinh ngày 25/6/2013.

Sau khi kết hôn, vợ chồng hòa thuận được một thời gian ngắn, đến năm 2014 thì phát sinh mâu thuẫn trầm trọng. Nguyên nhân mâu thuẫn chủ yếu là do bất đồng quan điểm sống, tính tình không phù hợp và năm 2015 anh D vi phạm pháp luật, bị Tòa án xử phạt 07 năm tù về tội Cướp tài sản. Chính vì những nguyên nhân như vậy, nên vợ chồng sống với nhau lạnh nhạt, căng thẳng và thường xuyên xảy ra va chạm cãi vã nhau. Mâu thuẫn của vợ chồng đã được hai bên gia đình và bạn bè hòa giải nhiều lần nhưng không giảm. Thực tế từ năm 2014 vợ chồng sống ly thân mỗi người một nơi, không còn quan tâm trách nhiệm đến nhau về mọi mặt. Nay chị L xác định tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn đã trầm trọng, vợ chồng sống ly thân 05 năm nay không còn khả năng đoàn tụ, chị L đề nghị Toà án giải quyết cho chị được ly hôn anh Lương Đại D.

Về con chung: Chị L và anh D có một con chung là Lương Gia Bảo, sinh ngày 25/6/2013. Ly hôn, chị L đề nghị được nuôi con và không yêu cầu anh D đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Chị L và anh D không có tài sản chung, không yêu cầu Toà án giải quyết.

Tại bản tự khai ngày 03/4/2019, anh Lương Đại D trình bày:

Anh D thừa nhận lời khai của chị L về thời gian, điều kiện kết hôn và con chung. Vợ chồng phát sinh mâu thuẫn trầm trọng từ năm 2014, nguyên nhân chủ yếu là bất đồng quan điểm sống và anh D vi phạm pháp luật bị Tòa án xử phạt 07 năm tù về tội Cướp tài sản. Anh D xác định mâu thuẫn của vợ chồng đã trầm trọng và không còn khả năng đoàn tụ. Anh D đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn với chị L. Hiện anh D đang chấp hành án tại trại giam Xuân Nguyên, thành phố Hải Phòng nên anh D có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt anh.

Về con chung: Anh D và chị L có một con chung là Lương Gia Bảo, sinh ngày 25/6/2013. Ly hôn, anh D đồng ý giao con cho chị L nuôi. Chị L không yêu cầu anh đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con, anh đồng ý và không có ý kiến gì.

Về tài sản chung: Anh D và chị L không có tài sản chung, không yêu cầu Toà án giải quyết.

Tại phiên tòa, chị Nguyễn Thị Triệu L vẫn giữ nguyên quan điểm như trên và đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Lương Đại D vì mâu thuẫn đã trầm trọng, vợ chồng sống ly thân đã 05 năm, không còn khả năng đoàn tụ. Về con chung: Chị L xin được nuôi con cho đến khi con đủ 18 tuổi và không yêu cầu anh D đóng góp tiền nuôi con. Về tài sản chung: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa, anh Lương Đại D vắng mặt nhưng có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt và giữ nguyên quan điểm như bản tự khai ngày 03/4/2019.

Kiểm sát viên phát biểu: Qua nghiên cứu hồ sơ thấy rằng việc thụ lý vụ án cũng như quá trình xây dựng lập hồ sơ và tại phiên tòa Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng các trình tự quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Đối với các đương sự: Phía nguyên đơn và bị đơn đã tuân thủ và thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Về nội dung vụ án: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, đề nghị Hội đồng xét xử xử cho chị L được ly hôn với anh D; về việc nuôi con: Giao con chung là Lương Gia Bảo, sinh ngày 25/6/2013 cho chị L trực tiếp nuôi cho đến khi con đủ 18 tuổi, nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chị L không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét giải quyết; về việc chia tài sản: Chị L và anh D không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét giải quyết. Về án phí: Chị L phải nộp án phí dân sự sơ thẩm theo luật định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Tòa án nhận định:

- Về tố tụng:

[1] Bị đơn anh Lương Đại D có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt, vì vậy Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 227 và Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vụ án vắng mặt bị đơn anh D.

- Về nội dung vụ án:

+ Về quan hệ hôn nhân:

[2] Chị Nguyễn Thị Triệu L và anh Lương Đại D lấy nhau trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân phường Đằng Giang, quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng ngày 29/7/2013 nên quan hệ hôn nhân của anh chị là hợp pháp.

[3] Sau khi kết hôn, đến năm 2014 vợ chồng phát sinh mâu thuẫn trầm trọng. Nguyên nhân mâu thuẫn chủ yếu là do bất đồng quan điểm sống và anh D vi phạm pháp luật. Chị L và anh D đã sống ly thân mỗi người một nơi 05 năm nay, không còn quan tâm trách nhiệm đến nhau về mọi mặt nữa.

[4] Xét cuộc sống chung của chị L và anh D không thể tồn tại, mục đích của hôn nhân không đạt được. Vì vậy cần giải quyết cho chị L được ly hôn với anh D là phù hợp với thực tế và quy định của pháp luật nên căn cứ vào Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị L đối với anh D.

+ Về việc nuôi con:

[5] Chị L và anh D có một con chung là Lương Gia Bảo, sinh ngày 25/6/2013. Ly hôn, chị L đề nghị được nuôi con và không yêu cầu anh D đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con. Xét anh D đang chấp hành án tại trại giam Xuân Nguyên và hiện cháu Bảo ở với mẹ và được chị L chăm sóc chu đáo. Do vậy, cần giao cháu Bảo cho chị L trực tiếp nuôi cho đến khi con đủ 18 tuổi. Chị L không yêu cầu anh D đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

+ Về việc tài sản:

[6] Chị L và anh D không có tài sản chung, không yêu cầu Toà án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

- Về án phí:

[7] Chị Nguyễn Thị Triệu L phải nộp án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 56, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, khoản 4 Điều 147, Điều 227, Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 ngày 12 tháng 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Triệu L được ly hôn với anh Lương Đại D.

- Về việc nuôi con: Giao con chung là Lương Gia Bảo, sinh ngày 25/6/2013 cho chị Nguyễn Thị Triệu L trực tiếp nuôi cho đến khi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Nghĩa vụ đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con, chị Nguyễn Thị Triệu L không yêu cầu anh Lương Đại D đóng góp, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

- Về việc chia tài sản: Chị Nguyễn Thị Triệu L và anh Lương Đại D không có tài sản chung, không yêu cầu Toà án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

- Về án phí: Chị Nguyễn Thị Triệu L phải nộp 300.000 (ba trăm nghìn) đồng án phí dân sự sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0015708 ngày 29/3/2019 của Chi cục Thi hành án quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng. Chị Nguyễn Thị Triệu L đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

- Quyền kháng cáo đối với bản án:

Nguyên đơn chị Nguyễn Thị Triệu L có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Bị đơn anh Lương Đại D có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết bản án theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

187
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 17/2019/HNGĐ-ST ngày 23/05/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:17/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Ngô Quyền - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về