TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KRÔNG ANA, TỈNH ĐẮK LẮK
BẢN ÁN 17/2019/HNGĐ-ST NGÀY 18/11/2019 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
Ngày 18/11/2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Krông Ana xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 115/2019/TLST-HNGĐ ngày 14 tháng 8 năm 2019 về việc: “Tranh chấp hôn nhân và gia đình” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 35/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 10/10/2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 29A/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 29/10/2019 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Trịnh Thị Hồng G, sinh năm 1998, có mặt. Trú tại: Thôn Ea, xã N, huyện K, tỉnh Đắk Lắk.
- Bị đơn: Anh Vũ Hồng Đ, sinh năm 1994, vắng mặt. Trú tại: Thôn Ea, xã N, huyện K, tỉnh Đắk Lắk.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện xin ly hôn, bản tự khai và tại phiên tòa nguyên đơn chị Trịnh Thị Hồng G trình bày: Chị G với anh Vũ Hồng Đ xây dựng gia đình trên cơ sở tự nguyện tìm hiểu, có đăng ký kết hôn vào ngày 19/01/2016 tại UBND xã N, huyện K, tỉnh Đắk Lắk. Sau khi kết hôn, vợ chồng chị chung sống với nhau không hạnh phúc. Nguyên nhân là do bất đồng quan điểm sống, tính cách không hòa hợp, anh Đ không quan tâm đến vợ con, đến đầu năm 2019 vợ chồng chị đã sống ly thân. Nay nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, đời sống chung không thể kéo dài, sống không tôn trọng nhau nên chị G đề nghị Tòa án giải quyết cho chị G được ly hôn với anh Vũ Hồng Đ.
Về con chung: Vợ chồng chị G có một con chung là Vũ Trịnh Hồng P, sinh ngày 27/9/2015. Khi ly hôn, chị G có nguyện vọng được trực tiếp chăm sóc và nuôi dưỡng cháu P cho đến tuổi trưởng thành. Chị G không yêu cầu anh Đ cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung và công nợ: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tại phiên tòa đại diện VKSND huyện Krông Ana phát biểu ý kiến: Tòa án xác định đúng quan hệ pháp luật tranh chấp là“Tranh chấp hôn nhân và gia đình”. Bị đơn cư trú tại huyện K nên Toà án nhân dân huyện Krông Ana thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.
Về thời hạn chuẩn bị xét xử: Tòa án đã đưa vụ án ra xét xử trong thời hạn luật định, đúng quy định tại Điều 203 Bộ luật tố tụng dân sự.
Về tư cách tham gia tố tụng: Xác định nguyên đơn chị Trịnh Thị Hồng G, bị đơn anh Vũ Hồng Đ là đúng quy định tại Điều 68 BLTTDS.
Về thu thập chứng cứ Tòa án đã tiến hành thu thập chứng cứ đúng theo quy định tại Điều 97 BLTTDS. Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: Nguyên đơn thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của đương sự, bị đơn không thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ đương sự.
Việc tuân thủ pháp luật tố tụng của Thẩm phán trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa Hội đồng xét xử tuân thủ đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự.
Về nội dung: Đề nghị HĐXX áp dụng các Điều 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình và khoản 4 Điều 147 BLTTDS, cho chị Trịnh Thị Hồng G ly hôn anh Vũ Hồng Đ.
Về con chung: Chị G và anh Đ có một con chung là Vũ Trịnh Hồng P, sinh ngày 27/9/2015. Khi ly hôn, chị G có nguyện vọng được trực tiếp chăm sóc và nuôi dưỡng cháu P cho đến tuổi trưởng thành, cháu P còn nhỏ nên cần giao cháu P cho chị G nuôi dưỡng là phù hợp.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, được xem xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa; Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Bị đơn anh Vũ Hồng Đ đã được triệu tập hợp lệ nhiều lần, nhưng vắng mặt tại phiên tòa không có lý do nên áp dụng điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vụ án theo thủ tục chung.
[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Trịnh Thị Hồng G và anh Vũ Hồng Đ kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, đăng ký ngày 19/01/2016 tại UBND xã N, huyện K, tỉnh Đắk Lắk, là quan hệ hôn nhân hợp pháp được pháp luật công nhận. Sau khi kết hôn chị G và anh Đ chung sống với nhau không hạnh phúc, thường xuyên xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, tính cách không hòa hợp, thường xuyên xảy ra cãi vã, vợ chồng không tìm được tiếng nói chung. Kết quả xác minh về tình trạng hôn nhân giữa vợ chồng chị G và anh Đ tại chính quyền địa phương cho biết mâu thuẫn giữa vợ chồng chị G đã kéo dài, mâu thuẫn đã đến mức trầm trọng, hiện nay vợ chồng chị G đã sống ly thân.
Xét thấy mâu thuẫn vợ chồng giữa chị G và anh Đ đã trầm trọng và kéo dài, tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được. Cần áp dụng Điều 56 luật hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Trịnh Thị Hồng G là phù hợp.
[3] Về con chung: Chị G và anh Đ có một con chung là cháu Vũ Trịnh Hồng P, sinh ngày 27/9/2015.
Cháu P đang còn nhỏ, hiện nay đang ở với chị G. Do đó, cần chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn chị Trịnh Thị Hồng G, giao cháu P cho chị G trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cho đến tuổi trưởng thành là phù hợp.
[4] Về cấp dưỡng nuôi con: Chị G không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên Tòa án không đề cập giải quyết.
[5] Về tài sản chung, nợ chung: Chị G và anh Đ không có nên Tòa án không đề cập giải quyết.
[6] Về án phí: Chị G phải chịu 300.000đ án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự; Các điều 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình; Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Trịnh Thị Hồng G và anh Vũ Hồng Đ.
Về con chung: Giao cho chị Trịnh Thị Hồng G được quyền trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung là cháu Vũ Trịnh Hồng P, sinh ngày 27/9/2015 cho đến tuổi trưởng thành.
Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.
Về án phí: Chị Trịnh Thị Hồng G phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm: 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Chi cục thi hành án dân sự huyện K theo biên lại thu tiền số: 0003580 ngày 12 tháng 8 năm 2019.
Nguyên đơn có mặt, có quyền kháng bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt, có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày niêm yết bản án.
Bản án 17/2019/HNGĐ-ST ngày 18/11/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình
Số hiệu: | 17/2019/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Krông A Na - Đăk Lăk |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 18/11/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về