Bản án 17/2019/HNGĐ-ST ngày 06/05/2019 về ly hôn và tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN THỊ XÃ TÂN UYÊN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 17/2019/HNGĐ-ST NGÀY 06/05/2019 VỀ LY HÔN VÀ TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 06 tháng 5 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân thị xã Tân Uyên tiến hành phiên tòa sơ thẩm công khai xét xử vụ án Hôn nhân và Gia đình thụ lý số 28/2019/TLST-HNGĐ ngày 22 tháng 01 năm 2019, về việc: Ly hôn và tranh chấp về nuôi con, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 21/2019/QĐXXST- HNGĐ ngày 22-3-2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 14/2019/QĐST-HNGĐ ngày 10-4-2018, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Ngô Thị T, sinh năm 1992; địa chỉ: Ấp C, xã L, huyện H, tỉnh Bạc Liêu; tạm trú: Tổ 1B, ấp 1, xã H, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương; có mặt.

- Bị đơn: Ông Nguyễn Văn K, sinh năm 1992; địa chỉ: Ấp C, xã L, huyện H, tỉnh Bạc Liêu; tạm trú: Tổ 4, ấp 1, xã H, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 07-12-2018, lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, nguyên đơn bà Ngô Thị T trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Bà Ngô Thị T và ông Nguyễn Văn K tự nguyện tìm hiểu nhau 01 năm, được cha mẹ hai bên đồng ý nên tiến hành tổ chức đám cưới vào năm 2014. Bà T và ông K đã đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã L, huyện H, tỉnh Bạc Liêu cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 12/2005, quyển số 02/2014 vào ngày 05-02-2015.

Sau khi kết hôn vợ chồng sinh sống tại Đắk Lắk. Năm 2014, vợ chồng sống chung tại xã H, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương cho đến nay. Thời gian đầu vợ chồng sống chung hạnh phúc nhưng sau đó thường xuyên phát sinh mâu thuẫn và đã sống ly thân từ tháng 4 năm 2018 cho đến nay. Từ khi vợ chồng sống ly thân với nhau không ai quan tâm chăm sóc cho nhau nữa. Bà T nhận thấy mâu thuẫn vợ chồng đã quá trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài nên bà T yêu cầu ly hôn với ông K.

- Về con chung: Có 01 (Một) con chung tên Nguyễn Thị Phương T, sinh ngày 25-12-2015; khi ly hôn bà Ngô Thị T yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc con.

Về cấp dưỡng nuôi con: Bà T không yêu cầu ông K phải cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung, nợ chung: Bà T không yêu cầu Tòa án giải quyết. Nguyên đơn đã cung cấp các tài liệu chứng cứ sau:

- Bản sao giấy chứng minh nhân dân và sổ hộ khẩu của bà Ngô Thị T;

- Bảo sao sổ tạm trú của bà Ngô Thị T và ông Nguyễn Văn K;

- Bản sao giấy khai sinh của con tên Nguyễn Thị Phương T;

- Bản sao giấy chứng nhận kết hôn.

Bị đơn ông Nguyễn Văn K được Tòa án triệu tập hợp lệ tham gia tố tụng tại Tòa nhưng vắng mặt không lý do.

Theo biên bản xác minh ngày 24-01-2019 tai Ủy ban nhân dân xã H, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương xác nhận “Ủy ban xã H không nhận được yêu cầu giải quyết tranh chấp về hôn nhân và con chung giữa bà T và ông K; bà T và ông K cũng không yêu cầu chính quyền địa phương giải quyết, hòa giải khi có mâu thuẫn xảy ra vì vậy không xác định được ông bà có mâu thuẫn như thế nào trong đời sống hôn nhân”.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên phát biểu tại phiên tòa: Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, những người tiến hành tố tụng và đương sự đã chấp hành đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự; Thẩm phán xác định quan hệ pháp luật đúng theo quy định tại Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự và vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã Tân Uyên.

Về nội dung: Bà Ngô Thị T và ông Nguyễn Văn K tự nguyện tìm hiểu nhau 01 năm, được cha mẹ hai bên đồng ý nên tiến hành tổ chức đám cưới vào năm 2014. Bà T và ông K đã đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã L, huyện H, tỉnh Bạc Liêu cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 12/2005, quyển số 02/2014 vào ngày 05-02-2015. Bà Ngô Thị T yêu cầu ly hôn vì ông K thường xuyên uống rượu; bà T đã khuyên nhủ nhiều lần nhưng ông K không thay đổi.

Hiện nay, ông K và bà T đã sống ly thân với nhau, không còn quan tâm đến nhau nữa. Về con chung có 01 con chung Nguyễn Thị Phương T, sinh ngày 25-12-2015, bà T yêu cầu được trực tiếp nuôi con; về cấp dưỡng nuôi con và tài sản chung, nợ chung bà T không yêu cầu Tòa án giải quyết. Do đó đề nghị Tòa án chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà T.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát.

[1] Bà Ngô Thị T có đơn khởi kiện yêu cầu ly hôn với ông Nguyễn Văn K và yêu cầu được quyền nuôi con sau khi ly hôn nên đây là vụ án “Ly hôn và tranh chấp về nuôi con” theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự; Ông Nguyễn Văn K có đăng ký tạm trú tại địa chỉ: Tổ 4, ấp 1, xã H, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã Tân Uyên theo quy định tại Điều 35 và Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Ông Nguyễn Văn K đã được Tòa án triệu tập hợp lệ để tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải vào các ngày 18-02-2019 và ngày 22-3-2019 nhưng ông K vắng mặt không lý do. Tòa án triệu tập hợp lệ ông Nguyễn Văn K tham gia phiên tòa lần thứ nhất vào ngày 10-4-2019 nhưng ông K vắng mặt không có lý do nên Tòa án quyết định hoãn phiên tòa và triệu tập ông K tham gia phiên tòa vào ngày 06-5-2019 nhưng ông K vắng mặt không có lý do là ông K đã từ bỏ quyền và nghĩa vụ tham gia tố tụng của mình tại Tòa án. Do đó, Tòa án căn cứ vào những tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ để giải quyết vụ án vắng mặt ông K theo quy định tại Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Bà Ngô Thị T và ông Nguyễn Văn K là những người đủ điều kiện kết hôn; ông bà tự nguyện tiến đến hôn nhân, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã L, huyện H, tỉnh Bạc Liêu cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 12/2005, quyển số 02/2014 vào ngày 05-02-2015, đây là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, hiện nay ông K và bà T không còn chung sống với nhau. Do tình cảm vợ chồng không còn, ông bà không thể tiếp tục chung sống với nhau, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà T yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn. Ông Nguyễn Văn K đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Điều này cho thấy ông K hoàn toàn không có thiện chí để Tòa án hòa giải vợ chồng đoàn tụ cùng nhau xây dựng gia đình. Xét, mâu thuẫn giữa bà T và ông K đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, ba Ngô Thị T yêu cầu ly hôn với ông Nguyễn Văn K là có căn cứ chấp nhận theo quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 “Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được”.

[4] Về con chung: Bà T và ông K có 01 (Một) con chung tên Nguyễn Thị Phương T, sinh ngày 25-12-2015 và hiện đang sống chung với bà T. Bà Ngô Thị T yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc con. Yêu cầu của bà T không trái đạo đức xã hội và phù hợp quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 “Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con” nên Tòa án chấp nhận.

[5] Về cấp dưỡng nuôi con: Bà T không yêu cầu ông K phải cấp dưỡng nuôi con chung nên Tòa án không xem xét giải quyết.

[6] Về tài sản chung, nợ chung: Các đương sự không yêu cầu nên Tòa án không giải quyết.

[7] Xét đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát tại phiên tòa là có căn cứ, phù hợp quy định pháp luật.

[8] Về án phí sơ thẩm: Nguyên đơn phải chịu theo quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ các Điều 28, 35, 39, 146, 147, 228, 271 và 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

- Căn cứ các Điều 56, 81, 82, 83 và 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mưc thu, miên, giam, thu, nôp, quan ly va sư dung án phí va lệ phí của Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Ngô Thị T về việc Ly hôn và tranh chấp về nuôi con với ông Nguyễn Văn K như sau:

- Về quan hệ hôn nhân: Bà Ngô Thị T được ly hôn với ông Nguyễn Văn K.

- Về con chung: Giao con chung tên Nguyễn Thị Phương T, sinh ngày 25-12-2015 cho bà Ngô Thị T được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Ông Nguyễn Văn K không phải cấp dưỡng nuôi con.

Bà Ngô Thị T và ông Nguyễn Văn K đều có quyền và nghĩa vụ đối với con chung, không ai được ngăn cản quyền thăm nom và chăm sóc con chung. Vì lợi ích của con chưa thành niên, Tòa án có thể giải quyết việc thay đổi người nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con khi đương sự có đơn yêu cầu theo quy định của pháp luật.

- Về tài sản chung và nợ chung: Các đương sự không yêu cầu nên Tòa án không giải quyết.

2. Về án phí sơ thẩm: Bà Ngô Thị T phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí Hôn nhân và Gia đình sơ thẩm, được khấu trừ vào 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2016/0014718, ngày 18-01-2019 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Tân Uyên.

3. Về quyền kháng cáo: Bà Ngô Thị T có mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Ông Nguyễn Văn K vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

153
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 17/2019/HNGĐ-ST ngày 06/05/2019 về ly hôn và tranh chấp nuôi con

Số hiệu:17/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 06/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về