Bản án 17/2018/HS-ST ngày 17/04/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TL, TỈNH HN

BẢN ÁN 17/2018/HS-ST NGÀY 17/04/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 17 tháng 4 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện TL, tỉnh HN,xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 09/2018/TLST-HS ngày14 tháng 3 năm 2018, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 17/2018/QĐXXST-HS ngày 03 tháng 4 năm 2018, đối với bị cáo:

+ Lê Xuân C1 - sinh năm 1994; nơi ĐKHKTT và nơi ở: Thôn TB1, xã TN, huyện TL, tỉnh HN; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn S1(đã chết) và bà Lê Thị K1; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị tạmgiữ từ ngày từ ngày 05/01/2018 đến ngày 11/01/2018 chuyển tạm giam, hiện đang

bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh HN; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 15 giờ 10 phút ngày 05/01/2018, tại đường Quốc lộ 1A thuộc thôn QT, xã TH, huyện TL, tỉnh HN; tổ tuần tra của Công an huyện TL, tỉnh HN phối hợp với Công an xã TH tuần tra, kiểm soát phát hiện Lê Xuân C1 có hành vi cất giấu 01 gói giấy bạc màu vàng, bên trong có chất bột màu trắng ngà (nghi là Heroine). Tổ công tác đã đưa C1 và tang vật về trụ sở UBND xã TH lập biên bản.

* Tài sản, vật chứng thu giữ khi bắt quả tang gồm:

- 01 gói giấy bạc màu vàng, bên trong chứa bất bột màu trắng ngà, được niêm phong trong phong bì ký hiệu QT01;

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Masstel màu đen bên trong có lắp 01 sim điện thoại mạng Viettel có số thuê bao 0986986994 và số tiền 75.000 đồng.

Tại Cơ quan điều tra, Lê Xuân C1 khai nhận: C1 là đối tượng nghiện ma túy. Do có nhu cầu sử dụng ma túy, nên khoảng 12 giờ ngày 05/01/2018, C1 từ nhà đi xuống khu vực thôn CĐ1, xã YP, huyện YY, tỉnh NĐ để mua ma túy. Tại đây, C1 gặp một người xe ôm không rõ tên tuổi; C1 hỏi: “Anh có chỗ nào mua ma túy không”, người xe ôm trả lời “Mày mua cái bao nhiêu tiền”; C1 nói: “Em mua cái bốn trăm”. Khi biết được người xe ôm có chỗ mua ma túy, C1 đưa cho người này số tiền 400.000 đồng, người này cầm tiền C1 đưa, đi đâu đó khoảng 15 phút rồi quay lại đưa cho C1 một gói giấy bạc màu vàng. C1 biết đây là gói ma túy nên cầm cất vào túi áo khoác rồi đi về nhà, cắt một phần ma túy vừa mua ra sử dụng. Sau

đó, C1 gói số ma túy còn lại vào và cất vào túi áo khoác bên phải đang mặc rồi nằm nghỉ ở nhà. Đến khoảng 14 giờ 30 cùng ngày, C1 đi bộ ra đầu thôn bắt xe ôm đi lên thôn QT, xã TH, huyện TL, tỉnh HN chơi. Đến nơi, C1 xuống xe trả tiền xe ôm rồi đi bộ dọc theo Quốc lộ 1A tìm quán mua thẻ điện thoại. Trong lúc C1 đang đi tìm quán mua thẻ điện thoại thì bị lực lượng Công an kiểm tra, phát hiện bắt quả tang.

Tại bản kết luận giám định số 09/PC54-MT ngày 08/01/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh HN kết luận: “Chất bột màu trắng dạng cục trong phong bì ký hiệu QT01 gửi giám định là ma túy, có trọng lượng 0,199g, loại Heroine. Heroine là chất ma túy nằm trong Danh mục I, STT 20, Nghị định 82 ngày 19/7/2013 của Chính phủ.”

Tại bản cáo trạng số 14/CT-VKS ngày 12/3/2018, Viện kiểm sát nhân dân huyện TL đã truy tố Lê Xuân C1 về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015

Tại phiên toà: Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Lê Xuân C1 phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 - Xử phạt Lê Xuân C1 từ 24 đến 30 tháng tù, miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo; buộc bị cáo phải nộp án phíhình sự sơ thẩm theo quy định. Xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số Heroine hoàn lại sau giám định; trả lại bị cáo C1 số tiền 75.000 đồng và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Masstel màu đen bên trong có lắp sim điện thoại mạng Viettel số 0986986994. Bị cáo Lê Xuân C1 thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình và có ý kiến xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện TL, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện TL, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên toà cũng như tại Cơ quan điều tra, bị cáo C1 đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng đã nêu. Lời khai của bị cáo được thẩm tra tại phiên tòa phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng đã thu giữ và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 15 giờ 10 phút ngày 05/01/2018, tại Quốc lộ 1A thuộc địa phận thôn QT, xã TH, huyện TL, tỉnh HN, Lê Xuân C1 đang cất giữ trong người 01 gói Heroine có trọng lượng 0,199g để sử dụng cho bản thân, thì bị tổ công tác của Công an huyện TL phối hợp với Công an xã TH phát hiện bắt quả tang.

[3] Hành vi tàng trữ trái phép Heroine của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến chính sách của Nhà nước về độc quyền quản lý các chất ma tuý, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự tại địa phương. Bản thân bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Hội đồng xét xử kết luận: Viện kiểm sát nhân dân huyện TL truy tố Lê Xuân C1 về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 là đúng người, đúng tội.

Xét về nhân thân bị cáo và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thấy rằng:

Về nhân thân: Bị cáo là người nghiện ma túy, chưa có tiền án, tiền sự. Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào.

Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Ngoài ra, bị cáo đã từng tham gia quân đội, có hoàn cảnh gia đình khó khăn, có ông nội được tặng Huân chương kháng chiến, nên Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Qua xem xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo; Hội đồng xét xử xét thấy cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục, cải tạo bị cáo và phòng ngừa chung.

Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo là người nghiện ma túy, lao động tự do, không có thu nhập ổn định, hoàn cảnh gia đình khó khăn; nên miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

\[4] Về nguồn gốc số Heroine thu giữ: Theo lời khai của C1 thì bị cáo mua Heroine của một người xe ôm không rõ tên tuổi địa chỉ. Ngoài lời khai của bị cáo thì không còn tài liệu nào khác, do đó Cơ quan điều tra không có cơ sở làm rõ người đã bán ma túy cho bị cáo và nguồn gốc số ma túy đã thu giữ.

[5] Về xử lý vật chứng:

+ Đối với lượng Heroine hoàn lại sau giám định, là vật cấm tàng trữ, không có giá trị; nay sẽ căn cứ Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự để tịch thu tiêu huỷ.

+ Số tiền 75.000 đồng và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Masstel màu đen bên trong có lắp sim điện thoại mạng Viettel số 0986986994, là tài sản hợp pháp của bị cáo Lê Xuân C1, không liên quan đến tội phạm, vì vậy cần trả lại cho bị cáo.

[6] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Lê Xuân C1 phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015;

Xử phạt bị cáo Lê Xuân C1 24 (hai mươi bốn) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ là 05/01/2018.

2. Xử lý vật chứng:

Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 - Tịch thu tiêu hủy toàn bộ lượng Heroine hoàn lại sau giám định niêm phong trong phong bì số 09/PC54-MT; trả lại cho bị cáo Lê Xuân C1 số tiền 75.000đ (Bảy mươi lăm nghìn đồng) và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Masstel màu đen bên trong có lắp sim điện thoại mạng Viettel (Chi tiết vật chứng như trong Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 14/3/2018 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện TL với Chi cục Thi hành án dân sự huyện TL. Số tiền theo Ủy nhiệm chi chuyển khoản, chuyển tiền điện tử số 07 lập ngày 14/3/2018 tại Kho bạc Nhà nước huyện TL).

3. Án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội - Buộc bịcáo Lê Xuân C1 phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo đối với bản án: Bị cáo có mặt tại phiên tòa, được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

202
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 17/2018/HS-ST ngày 17/04/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:17/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thanh Liêm - Hà Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/04/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về