Bản án 17/2018/HNGĐ-ST ngày 22/05/2018 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN N - TỈNH KHÁNH HÒA

BẢN ÁN 17/2018/HNGĐ-ST NGÀY 22/05/2018 VỀ LY HÔN

Ngày 22 tháng 5 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện N - tỉnh

Khánh Hòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số:

283/2017/TLST- HNGĐ ngày 18 tháng 12 năm 2017 về việc ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 16/2018/QĐST-HNGĐ ngày 09 tháng 4 năm 2018,

giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Phạm Thị Mỹ K – sinh năm: 1984;

Địa chỉ: Thôn PH2, xã Vạn T, huyện N, tỉnh Khánh Hòa.

Có mặt.

Bị đơn: Anh Nguyễn Ngọc A – sinh năm: 1980;

Địa chỉ: Thôn PH 2, xã Vạn T, huyện N, tỉnh Khánh Hòa.

Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Trong đơn khởi kiện gởi đến Tòa án đề ngày 13/11/2017, Biên bản lấy lời khai ngày 18/12/2017 và tại phiên tòa, nguyên đơn chị Phạm Thị Mỹ K trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị K và anh A tự nguyện chung sống với nhau vào năm 2009 và đến năm 2014 thì đăng ký kết hôn tại UBND xã Vạn T, huyện N, tỉnh Khánh Hòa. Giấy chứng nhận kết hôn số 21 cấp ngày 19/02/2014.

Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2015 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do giữa vợ chồng có nhiều bất đồng về quan điểm sống, tính tình vợ chồng không hợp, không tin tưởng, tôn trọng lẫn nhau và do anh A không lo chí thú làm ăn mà đam mê bài bạc nên giữa vợ chồng hay xảy ra xích mích, cãi vã, đánh đập, xúc phạm nhau. Từ tháng 3 năm 2016 vợ chồng đã mạnh ai nấy sống, không còn quan hệ gì với nhau nữa. Chị K xác định tình cảm vợ chồng không còn và yêu cầu xin được ly hôn.

- Về con chung: Có 02 con chung là Nguyễn Ngọc Q - sinh ngày

06/10/2009, Nguyễn Quốc H – sinh ngày 28/6/2011. Khi ly hôn chị K yêu cầu được chăm sóc, nuôi dưỡng cả 02 (hai) con chung cho đến khi các con chung trưởng thành (đủ 18 tuổi) và không yêu cầu anh A cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung: Chị K không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về nợ chung: Chị K xác định giữa vợ chồng không có nợ chung.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Toà án đã nhiều lần triệu tập hợp lệ đối với bị đơn anh Nguyễn Ngọc A đến Tòa để Tòa án lấy lời khai và tham gia phiên hòa giải nhưng anh A đều không có mặt để làm việc theo Giấy triệu tập và Thông báo về phiên họp kiểm tra chứng cứ và hòa giải của Toà án, nên Toà án không lấy được lời khai và không hòa giải được vụ án.

* Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Vạn Ninh đề nghị

Tòa án nhân dân huyện Vạn Ninh chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

- Về thủ tục tố tụng: Anh Nguyễn Ngọc A là bị đơn đã được Tòa án nhân dân huyện Vạn Ninh triệu tập hợp lệ đến phiên tòa xét xử lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt. Theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt anh A.

- Về quan hệ hôn nhân: Chị K và anh A kết hôn tự nguyện, đủ điều kiện kết hôn và đã được Ủy ban nhân dân xã Vạn T, huyện Vạn Ninh cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 21 ngày 19 tháng 02 năm 2014. Nên quan hệ hôn nhân giữa chị Phạm Thị Mỹ K và anh Nguyễn Ngọc A được pháp luật công nhận là hôn nhân hợp pháp.

Tại phiên tòa chị K vẫn giữ nguyên yêu cầu ly hôn với anh Nguyễn Ngọc A. Xét lời khai của chị K thì thấy cuộc sống chung vợ chồng giữa chị K và anh A có nhiều mâu thuẫn và không tìm được phương pháp nào để tiếp tục sống chung với nhau nữa. Vợ chồng thường xảy ra xích mích, cãi vã, đánh đập, xúc phạm nhau. Từ tháng 3 năm 2016 vợ chồng đã mạnh ai nấy sống, không còn quan hệ gì với nhau nữa. Như vậy mâu thuẫn giữa chị K và anh A đã đến hồi trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Quá trình giải quyết vụ án, anh A đã được Toà án triệu tập hợp lệ đến Tòa

để Tòa án lấy lời khai và tham gia phiên hòa giải để giải quyết việc ly hôn giữa hai người nhưng anh A đã không có mặt để làm việc theo giấy triệu tập của Toà án. Điều đó chứng tỏ anh A không còn quan tâm gì đến cuộc hôn nhân này nữa nên việc chị K yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh A là có căn cứ, phù hợp với quy định tại Điều 51, Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình, nên chấp nhận yêu cầu này của chị K.

- Về việc nuôi con chung và cấp dưỡng nuôi con chung: Chị K yêu cầu khi vợ chồng ly hôn thì được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng 02 (hai) con chung là Nguyễn Ngọc Q - sinh ngày 06/10/2009 và Nguyễn Quốc H – sinh ngày

28/6/2011.

Xét: Hiện nay 02 (hai) con chung Nguyễn Ngọc Q - sinh ngày 06/10/2009 và Nguyễn Quốc H – sinh năm 28/6/2011 đang do chị K chăm sóc, nuôi dưỡng. Tại Biên bản lấy lời khai ngày 18/12/2017 cháu Q xin được ở với mẹ, cháu H còn nhỏ nên cần được mẹ chăm sóc, nuôi dưỡng. Xét yêu cầu của chị K về việc được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung thì thấy nên giao cho chị K trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng 02 (hai) con chung cho đến khi các con chung trưởng thành (đủ 18 tuổi) là có căn cứ và đúng luật.

+ Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị K không có yêu cầu nên Tòa không xem

xét.

 

 

- Về tài sản chung: Chị K không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Tòa không

xem xét.

- Về nợ chung: Chị K xác định vợ chồng không nợ của ai, không ai nợ của vợ chồng.

- Về án phí: Chị K phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng).

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 51, 56 của Luật hôn nhân và gia đình;

Căn cứ vào Điều 28, 35, 147, điểm b khoản 2 Điều 227, 271, 273 của Bộ luật

Tố tụng dân sự.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn:

- Chị Phạm Thị Mỹ K được ly hôn với anh Nguyễn Ngọc A.

- Về việc nuôi con chung và cấp dưỡng nuôi con chung: Giao cho chị Phạm Thị Mỹ K trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục 02 (hai) con chung Nguyễn Ngọc Q - sinh ngày 06/10/2009 và Nguyễn Quốc H - sinh năm

28/6/2011 cho đến khi các con chung trưởng thành (đủ 18 tuổi) và chị Phạm Thị

Mỹ K không yêu cầu anh Nguyễn Ngọc A cấp dưỡng nuôi con.

Anh Nguyễn Ngọc A được quyền thăm nom, chăm sóc con chung không ai được cản trở.

Vì lợi ích của con, khi cần thiết chị K, anh A đều có quyền yêu cầu thay đổi người nuôi con chung cũng như cấp dưỡng nuôi con chung.

- Về tài sản chung: Chị Phạm Thị Mỹ K không yêu cầu Tòa án giải quyết.

2. Về án phí: Chị Phạm Thị Mỹ K phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm đã nộp là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2016/0013918 ngày 18 tháng 12 năm 2017 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Vạn Ninh. Chị K đã nộp đủ án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.

3. Quyền kháng cáo của nguyên đơn là 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, quyền kháng cáo của bị đơn là 15 ngày kể từ ngày bản án được giao hoặc được niêm yết để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Khánh Hoà xét xử phúc thẩm.

 Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2

Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9

Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại

Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

425
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 17/2018/HNGĐ-ST ngày 22/05/2018 về ly hôn

Số hiệu:17/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vạn Ninh - Khánh Hoà
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/05/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về