Bản án 17/2017/HSST ngày 19/09/2017 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CÁT HẢI, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 17/2017/HSST NGÀY 19/09/2017 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 19/9/2017 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cát Hải, thành phố Hải Phòng mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 16/2017/HSST ngày 01/9/2017 đối với bị cáo:

Nguyễn Thị P, sinh ngày 02 tháng 5 năm 1993 tại Hải Phòng; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; nơi đăng ký HKTT và nơi cư trú: Thôn V, xã V, huyện C, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Lao động phổ thông; trình độ văn hoá: 4/12; con ông Nguyễn Văn C và bà Vương Thị T; bị cáo có 03 con, con lớn sinh năm 2009, 2 con nhỏ sinh năm 2010; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt theo lệnh truy nã số 01/QĐTN ngày 02/7/2017 của Công an huyện Cát Hải, thành phố Hải Phòng, tạm giữ ngày 14/7/2017 đến ngày 17/7/2017 chuyển tạm giam; có mặt.

Người bị hại: Anh Trần Trí T , sinh năm 1981

Địa chỉ: Thôn T, xã H, huyện C, thành phố Hải Phòng;  Có mặt.

NHẬN THẤY

Bị cáo Nguyễn Thị P bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Cát Hải, thành phố Hải Phòng truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Khoảng 10 giờ 30 phút ngày 06/5/2017 Nguyễn Thị P đến quán tạp hóa của anh Trần Trí T, thôn T, xã H, huyện C, thành phố Hải Phòng để mua quạt điện. Khi đang chờ chị Vũ Thị B (vợ anh Trung) lấy quạt, P phát hiện trên tường của quántreo 01 túi xách nên nảy sinh  ý định trộm cắp và đến lục trong túi xách lấy được 01 ví da màu nâu rồi giấu vào người đi về.  Về nhà, P kiểm tra bên trong ví có số tiền 16.700.000 đồng, 01 chứng minh nhân dân và 01 giấy phép lái xe đều mang tên Trần Trí T. Bị cáo vất toàn bộ giấy tờ ra vườn và cất giấu 3.000.000 đồng để đóng tiền học cho con, số tiền còn lại Pg đã ăn tiêu hết.

Ngày 10/5/2017 P  đã giao nộp 01 chiếc ví da, 01 chứng minh nhân dân, 01 giấy phép lái xe mang tên Trần Trí T và số tiền 3.000.000 đồng. Toàn bộ số vật chứng đã được Công an huyện Cát Hải trả lại cho anh T.

Kết luận về giá của tài sản trong tố tụng hình sự số 04/KL-HDĐG ngày 19/5/2017 của Hội đồng định giá kết luận: Ví da màu nâu đã qua sử dụng có giá 100.000 (một trăm nghìn) đồng.

Bị cáo bị bắt theo Quyết định truy nã số 01 ngày 02/7/2017 của Công an huyện Cát Hải, thành phố Hải Phòng.

Từ những hành vi nêu trên của bị cáo, Viện kiểm sát nhân dân huyện Cát Hải, thành phố Hải Phòng truy tố bị cáo Nguyễn Thị P về tội: Trộm cắp tài sản, căn cứ khoản 1 Điều 138 của Bộ luật Hình sự theo cáo trạng số 13/CT-VKS ngày 31/5/2017.

Tại phiên toà bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã nêu phù hợp với lời khai của người bị hại.

Về trách nhiệm dân sự: Tại phiên tòa, anh Trần Trí T xác nhận gia đình bị cáo đã bồi thường đủ số tiền 16.700.000 đồng nên anh không yêu cầu bị cáo bồi thường; về trách nhiệm hình sự: Người bị hại xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Cát Hải thực hành quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo P về tội Trộm cắp tài sản. Đồng thời phân tích tính chất, hành vi phạm tội của bị cáo, phân tích nhân thân và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1 Điều 138; Điều 33; điểm b, h, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 của Bộ luật Hình sự đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Thị P từ 06 đến 09 tháng tù.

Căn cứ vào các chứng cứ và các tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà; trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác;

XÉT THẤY

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Cát Hải, thành phố Hải Phòng, điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Cát Hải, thành phố Hải Phòng, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo, người bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Lời khai của bị cáo  tại phiên tòa phù hợp với lời khai của người bị hại, phù hợp với các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Hành vi của bị cáo là lén lút, lợi dụng sự sơ hở mất cảnh giác của người sở hữu tài sản để chiếm đoạt tài sản. Tài sản bị cáo chiếm đoạt có giá trị 16.800.000 đồng, vì vậy, có đủ cơ sở để kết luận bị cáo P  phạm tội: Trộm cắp tài sản, tội phạm và hình phạt quy định tại khoản 1 Điều 138 của Bộ luật Hình sự. Như vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Cát Hải truy tố bị cáo là có cơ sở, đúng người, đúng pháp luật, đúng hành vi phạm tội của bị cáo.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của công dân, gây mất trật tự trị an, ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh chính trị của địa phương, vì vậy cần đưa bị cáo ra xét xử để làm gương răn đe giáo dục.

Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Nhân thân bị cáo: Trong quá trình điều tra giải quyết vụ án, bị cáo đã trốn khỏi nơi làm việc của Công an huyện Cát Hải, qua xác minh, cơ quan điều tra không biết rõ bị cáo đang ở đâu nên đã ra quyết định truy nã và bị cáo đã bị bắt theo quyết định truy nã của Công an huyện Cát Hải, đây là hành vi thể hiện sự không tôn trọng pháp luật của bị cáo, vì vậy cần phải xét xử bị cáo nghiêm thể hiện tính răn đe, giáo dục đối với bị cáo.

Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiệm trọng,  bị cáo đã tác động tích cực đến gia đình để bồi thường toàn bộ số tài sản cho người bị hại và người bị hại đã xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Từ những phân tích trên đây thấy cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, h,  p khoản 1, khoản 2 Điều 46 của Bộ luật Hình sự, mặt khác con bị cáo còn nhỏ nên Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo tạo điều kiện cho bị cáo sớm trở về đoàn tụ với gia đình, nuôi dạy các con và hòa nhập với cộng đồng.

Về hình phạt bổ sung: Do bị cáo không có nghề nghiệp và không có thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại đã nhận lại toàn bộ tài sản nên không yêu cầu bồi thường vì vậy Hội đồng xét xử không xem xét.

Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị P phạm tội: Trộm cắp tài sản

Áp dụng khoản 1 Điều 138; Điều 33; điểm b, h, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 của Bộ luật Hình sự xử phạt Nguyễn Thị P 06 (sáu) tháng tù; thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, ngày 14 tháng 7 năm 2017.

Về án phí: Áp dụng Điều 99 Bộ luật Tố tụng hình sự, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo, người bị hại có quyền kháng cáo yêu cầu xét xử theo thủ tục phúc thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

255
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 17/2017/HSST ngày 19/09/2017 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:17/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cát Hải - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/09/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về