Bản án 171/2017/HSST ngày 26/10/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN LÊ CHÂN – THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 171/2017/HSST NGÀY 26/10/2017 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 26 tháng 10 năm 2017, tại trụ sở Toà án nhân dân quận Lê Chân xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 142/2017/HSST ngày 03 tháng 10 năm 2017 đối với bị cáo:

Nguyễn Mạnh H, sinh năm 1980 tại Thái Nguyên; đăng ký hộ khẩu thường trú và nơi ở: Tổ dân phố L, phường T, quận H, thành phố H; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Đình T (đã chết) và bà Đỗ Thị L sinh năm 1950; chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: 02 tiền án đã xóa: bị tạm giữ ngày 22/6/2017; tạm giam ngày 23/6/2017; có mặt tại phiên tòa.

NHẬN THẤY

Bị cáo Nguyễn Mạnh H bị Viện kiểm sát nhân dân quận Lê Chân truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Khoảng 11 giờ 40’ ngày 21/6/2017, Tổ công tác Công an phường A làm nhiệm vụ tại khu vực đường tàu M phát hiện Nguyễn Mạnh H có biểu hiện tàng trữ trái phép chất ma túy tại khu vực trước cửa nhà số 02 đường tàu M, phường A, quận L, thành phố Hải Phòng nên đã tiến hành kiểm tra. Thu giữ trong lòng bàn tay trái của H 01 túi nilon trong có 18 gói giấy nhỏ màu trắng chứa chất bột màu trắng nghi là heroin. Ngoài ra còn thu giữ của H 01 xe moto BKS 16L8-1526. Tổ công tác đã đưa H cùng vật chứng về trụ sở Công an phường để lập biên bản, bắt người có hành vi phạm tội quả tang.

Tại bản kết luận giám định số 806/PC54(MT) ngày 22/6/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an TP Hải Phòng kết luận: Trọng lượng Heroin có trong 0,7755 gam chất bột thu giữ của H là 0,4232 gam.

Tại Cơ quan điều tra, H khai nhận: Khoảng 11h40’ ngày 21/6/2017, H đi xe mô tô một mình đến khu vực chắn tàu đường C để mua ma túy về sử dụng. Hùng rẽ phải đi về phía đường tàu M được 200m thì gặp và mua của một nữ giới bịt mặt không quen biết 900.000đồng được 18 gói heroin gói bằng giấy màu trắng. H cầm số ma túy vừa mua ở tay trái, quay xe ra về, đến khu vực trước cửa nhà số 2 đường tàu M thì bị lực lượng Công an kiểm tra bắt giữ như trên.

Tại phiên tòa, Nguyễn Mạnh H khai nhận hành vi phạm tội như nêu trên.

Tại Bản Cáo trạng số 166/CT-VKS ngày 02/10/2017, Viện kiểm sát nhân dân quận Lê Chân truy tố Nguyễn Mạnh H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà, sau khi tranh luận, đại diện Viện kiểm nhân dân quận Lê Chân khẳng định Cáo trạng truy tố đúng người, đúng tội, đúng pháp luật và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng Nghị quyết số 41/2017/QH14 của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; khoản 1 Điều 194, điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự 1999 được sửa đổi bổ sung năm 2009; điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự 2015 xử phạt bị cáo mức án từ 36 đến 42 tháng tù; bị cáo không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 41 Bộ luật hình sự: Tịch thu tiêu hủy lượng ma túy còn lại sau giám định.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo luật định.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ khác có trong hồ sơ, ý kiến của kiểm sát viên, bị cáo,

XÉT THẤY

Tại phiên toà hôm nay, bị cáo khai nhận tội phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, thể hiện:

Do nghiện ma tuý nên hồi 11 giờ 40’ ngày 21/6/2017, Nguyễn Mạnh H đã có hành vi cất giữ bất hợp pháp trong người 0,4232 gam heroin với mục đích để sử dụng cho bản thân thì bị phát hiện bắt giữ. Vì vậy, Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự 1999 được sửa đổi bổ sung năm 2009, điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự 2015 đủ cơ sở kết luận bị cáo Nguyễn Mạnh H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Theo quy định tại điểm h khoản 2 Điều 2, Điều 4 của Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về việc thi hành Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 12/2017/QH14 và về hiệu lực thi hành của Bộ luật tố tụng hình sự số 101/2015/QH13, Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự số 99/2015/QH13, Luật thi hành tạm giữ, tạm giam số 94/2015/QH13 hướng dẫn tiếp tục thực hiện các quy định tại khoản 3 Điều 7 của Bộ luật hình sự 2015: “Điều luật xóa bỏ một tội phạm, quy định một hình phạt nhẹ hơn, một tình tiết giảm nhẹ mới hoặc mở rộng phạm vi áp dụng án treo, miễn trách nhiệm hình sự, loại trừ trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt, giảm hình phạt, tha tù trước thời hạn có điều kiện, xóa án tích và quy định khác có lợi cho người phạm tội, thì được áp dụng đối với hành vi phạm tội đã được thực hiện trước khi điều luật đó có hiệu lực thi hành”.

Đối chiếu với quy định về mức hình phạt tại khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự 2015 (từ 01 đến 05 năm) thấp hơn quy định về mức hình phạt tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự 1999 được sửa đổi bổ sung năm 2009 (từ 02 đến 07 năm).

Vì vậy, Hội đồng xét xử khi áp dụng hình phạt đối với bị cáo cần áp dụng mức hình phạt có lợi theo quy định tại khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự 2015.

Bị cáo không có thu nhập ổn định, không có tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ quản lý độc quyền của Nhà nước về các chất gây nghiện và các chất độc dược; bị cáo có 02 tiền án (Án số 16/2006/HSST ngày 27/4/2006, Tòa án nhân dân huyện P, tỉnh Thái Nguyên xử 09 tháng tù giam về tội “Trộm cắp tài sản” và án số 07/2010/HSST ngày 11/3/2010, Tòa án nhân dân huyện G, tỉnh Đ xử 05 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy) mặc dù đã được xóa nhưng thể hiện ý thức chấp hành pháp luật của bị cáo rất kém; bị cáo nghiện ma túy nên cần phải xử lý nghiêm, cách ly xã hội một thời gian đủ để giáo dục, cải tạo và cai nghiện ma túy.

Xét thái độ khai báo thành khẩn nên xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo theo quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự 1999 được sửa đổi bổ sung năm 2009 (điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hinh sự 2015).

Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 41 Bộ luật hình sự: Tịch thu tiêu hủy lượng ma túy còn lại sau giám định.

Đối với đối tượng nữ giới bán ma túy cho H, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Lê Chân chưa xác định được căn cước, lai lịch hiện đang tiếp tục điều tra khi nào rõ xử lý sau.

Đối với chiếc xe môtô BKS 16L8-1526, quá trình điều tra xác định được chủ sở hữu hợp pháp là Nguyễn Giang T sinh năm 1974, trú tại: Tổ dân phố L, T, H,

Hải Phòng (là anh trai H). Ngày 21/6/2017, T cho H mượn xe để đi có việc, T không biết H mượn xe để đi mua ma túy. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Lê Chân đã trả lại xe và đăng ký xe cho T là có căn cứ.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hinh sự sơ thẩm theo luật định.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Mạnh H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Áp dụng Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20 tháng 6 năm 2017 của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam;

Áp dụng khoản 1 Điều 194, điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự 1999 được sửa đổi bổ sung năm 2009; áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015;

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Mạnh H 36 (ba mươi sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 22 tháng 6 năm 2017.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 41 Bộ luật hình sự 1999 được sửa đổi bổ sung năm 2009; điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự 2015:

Tịch thu tiêu hủy lượng ma túy còn lại sau giám định.

 (Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 20 tháng 9 năm 2017 giữa Chi cục thi hành án dân sự quận Lê Chân, Hải Phòng và Công an quận Lê Chân).

Về án phí: Bị cáo phải nộp 200.000 (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hánh án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

260
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 171/2017/HSST ngày 26/10/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:171/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Lê Chân - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/10/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về