Bản án 170/2019/HNGĐ-ST ngày 29/11/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 170/2019/HNGĐ-ST NGÀY 29/11/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON 

Ngày 29 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 979/2019/TLST-HNGĐ ngày 02 tháng 10 năm 2019 về việc “tranh chấp ly hôn, nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 193/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 25/10/2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 144/2019/QĐST-HNGĐ ngày 12/11/2019, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Minh T, sinh năm 1986; thường trú: Đội 19 - A, xã B, huyện C, tỉnh Quảng Nam; tạm trú: Số 15/10, khu phố Đ, phường D, thị xã D, tỉnh Bình Dương.

- Bị đơn: Anh Hồ Văn H, sinh năm 1986; thường trú: Đội 14 - A, xã B, huyện C, tỉnh Quảng Nam; tạm trú: Số 15/10, khu phố Đ, phường D, thị xã D, tỉnh Bình Dương.

(Chị Nguyễn Thị Minh T có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt, anh Hồ Văn H vắng mặt không lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện đề ngày 23/7/2019 và lời khai trong quá trình tố tụng, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Minh T trình bày:

Chị Nguyễn Thị Minh T và anh Hồ Văn H chung sống với nhau từ tháng 6/2014, đến năm 2015 thì đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã B, huyện C, tỉnh Quảng Nam theo Giấy chứng nhận kết hôn số 05/2015, quyển số 01/2014 ngày 09/02/2015. Sau khi kết hôn, vợ chồng sinh sống và làm việc tại tỉnh Bình Dương, chị T làm công nhân với mức lương khoảng 6.500.000 đồng/tháng, anh H làm thợ hồ, thợ cửa sắt tại các vùng lân cận như Thủ Đức, Hóc Môn, công việc của anh H không thường xuyên. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc nhưng sau đó phát sinh mâu thuẫn do anh H ham mê cờ bạc, lười lao động, vợ chồng thường xuyên cãi nhau, anh H nhiều lần đánh và chửi chị T. Đến nay thì mâu thuẫn giữa hai bên trầm trọng, tình cảm vợ chồng không còn nên chị T yêu cầu được ly hôn với anh H.

Về con chung: Quá trình chung sống, chị T và anh H có một con chung là Hồ Văn Tiến D, sinh ngày 30/10/2015. Hiện con đang ở với chị T. Sau ly hôn, chị T yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cháu D, và yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con với số tiền 3.000.000 đồng/tháng.

Về tài sản chung, nghĩa vụ chung và nợ chung: Chị T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Đối với bị đơn anh Hồ Văn H: Quá trình tố tụng, bị đơn đã được Tòa án tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án, đơn khởi kiện và các tài liệu chứng cứ do nguyên đơn cung cấp. Tòa án đã triệu tập hợp lệ bị đơn để làm việc, viết bản tự khai; tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; tham gia phiên tòa nhưng bị đơn vắng mặt không có lý do. Đồng thời, bị đơn cũng không có ý kiến, yêu cầu gì đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

- Ngày 07/10/2019 Tòa án xác minh tình trạng hôn nhân, quá trình chung sống và vấn đề chăm sóc nuôi dạy con chung giữa chị Nguyễn Thị Minh T và anh Hồ Văn H tại Hội Liên hiệp phụ nữ phường D và được cung cấp như sau: Hội Liên hiệp phụ nữ phường D không nhận được đơn đề nghị hòa giải quan hệ hôn nhân giữa chị Nguyễn Thị Minh T và anh Hồ Văn H. Đồng thời Hội Liên hiệp phụ nữ phường D cũng không tiếp nhận phản ánh từ cơ sở về mâu thuẫn giữa hai anh chị, do đó không biết rõ giữa hai anh chị có mâu thuẫn như thế nào, vấn đề con chung, công việc và thu nhập Hội Liên hiệp phụ nữ phường D cũng không biết nên không cung cấp được thông tin cho Tòa án.

- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An trình bày quan điểm về việc tuân theo pháp luật, quan điểm giải quyết vụ án: Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án được thực hiện đúng theo quy định pháp luật. Đối với những người tham gia tố tụng: Nguyên đơn chấp hành đúng quy định pháp luật tố tụng dân sự; bị đơn không chấp hành đúng quy định tại Điều 70, 72 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Về quan điểm giải quyết vụ án: Về quan hệ hôn nhân, mâu thuẫn giữa chị T và anh H là trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được nên có căn cứ chấp nhận yêu cầu của chị T được ly hôn với anh H. Về con chung, cháu Hồ Văn Tiến D còn nhỏ nên cần giao cháu D cho chị T nuôi dưỡng là phù hợp. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con, xét điều kiện thực tế của anh H công việc không ổn định nên chị T yêu cầu mức cấp dưỡng nuôi con 3.000.000 đồng/tháng là cao so với khả năng của anh H, xem xét mức cấp dưỡng nuôi con 2.000.000 đồng/tháng là phù hợp. Về tài sản chung, nghĩa vụ chung và nợ chung: đương sự không yêu cầu nên không đặt ra xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: Nguyên đơn chị Nguyễn Thị Minh T khởi kiện yêu cầu giải quyết ly hôn và nuôi con với bị đơn anh Hồ Văn H, anh H có nơi cư trú tại địa chỉ số 15/10, khu phố Đ, phường D, thị xã D, tỉnh Bình Dương. Vì vậy, đây là vụ án tranh chấp về ly hôn, nuôi con thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương theo quy định tại khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Nguyên đơn chị Nguyễn Thị Minh T có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt; bị đơn anh Hồ Văn H đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai để tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt không rõ lý do. Căn cứ các Điều 227, 228 và 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án xét xử vắng mặt các đương sự.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Minh T và anh Hồ Văn H kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã B, huyện C, tỉnh Quảng Nam theo Giấy chứng nhận kết hôn số 05/2015, quyển số 01/2014, cấp ngày 09/02/2015 đúng với quy định của pháp luật, là hôn nhân hợp pháp được pháp luật bảo vệ.

Theo nguyên đơn chị T trình bày thì nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng là do anh H ham mê cờ bạc, lười lao động, vợ chồng thường xuyên cãi nhau, anh H nhiều lần đánh và chửi chị T. Đến nay thì mâu thuẫn giữa hai bên trầm trọng, tình cảm vợ chồng không còn nên chị T yêu cầu được ly hôn với anh H.

Xét thấy, Tòa án đã triệu tập anh H có mặt tại Tòa án để trình bày ý kiến nhằm hòa giải, hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng anh H không đến và cũng không có ý kiến, yêu cầu gì. Điều này chứng tỏ tình trạng hôn nhân giữa chị T và anh H đã thật sự trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên cả hai bên đều không muốn hàn gắn. Vì vậy, yêu cầu ly hôn của chị T là phù hợp với quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình nên có căn cứ chấp nhận.

[4] Về con chung: Chị T và anh H có một con chung là Hồ Văn Tiến D, sinh ngày 30/10/2015. Tòa án đã triệu tập anh H để trình bày ý kiến về con chung nhưng anh H vắng mặt không có lý do trong suốt quá trình tố tụng. Điều 81 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014 quy định:

“2. Vợ chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con…trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con…”.

Xét cháu Hồ Văn Tiến D còn nhỏ nên cần sự quan tâm, chăm sóc từ người mẹ để phát triển toàn diện, đồng thời cháu D đang sống ổn định với chị T. Vì vậy, việc chị T yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung Hồ Văn Tiến D là phù hợp với quy định pháp luật và bảo đảm được quyền lợi về mọi mặt của con nên có căn cứ chấp nhận. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Chị T có yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con với số tiền 3.000.000 đồng/tháng. Trong quá trình tố tụng, Tòa án đã ban hành thông báo yêu cầu cung cấp với nội dung yêu cầu anh H cung cấp bản sao toàn bộ giấy tờ chứng minh thu nhập hàng tháng của anh H. Tuy nhiên, anh H không cung cấp và cũng không có văn bản nào thể hiện về thu nhập hàng tháng. Theo lời khai của chị T thì anh H làm thợ hồ, thợ cửa sắt, công việc không thường xuyên.

Xét nghĩa vụ nuôi con là của cả cha lẫn mẹ, khi ly hôn, người không nuôi con phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung. Tuy nhiên, chị T yêu cầu mức cấp dưỡng 3.000.000 đồng/tháng là cao so với khả năng thực tế của anh H. Sau khi xem xét điều kiện thực tế của các bên và nhu cầu thiết yếu của con chung ở độ tuổi nêu trên thì thấy mức cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 2.000.000 đồng là phù hợp với quy định tại Điều 116 Luật Hôn nhân và gia đình.

[5] Về tài sản chung, nghĩa vụ chung và nợ chung: Đương sự không yêu cầu nên Tòa án không đặt ra xem xét.

[6] Từ những phân tích trên có căn cứ chấp nhận yêu cầu khởi kiện cũa nguyên đơn và chấp nhận đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An về quan điểm giải quyết vụ án.

[7] Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị Minh T phải chịu án phí ly hôn, anh Hồ Văn H phải chịu án phí cấp dưỡng nuôi con theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ các Điều 51, 56, 81, 82, 83 và 84 của Luật Hôn nhân và gia đình; điểm a khoản 5 và điểm a khoản 6 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án,

1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Nguyễn Thị Minh T đối với bị đơn anh Hồ Văn H về việc tranh chấp ly hôn, nuôi con.

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Minh T được ly hôn với anh Hồ Văn H (Giấy chứng nhận kết hôn số 05/2015, quyển số 01/2014, ngày 09/02/2015 do Uỷ ban nhân dân xã B, huyện C, tỉnh Quảng Nam cấp).

- Về con chung: Giao con chung Hồ Văn Tiến D, sinh ngày 30/10/2015 cho chị Nguyễn Thị Minh T trực tiếp nuôi dưỡng. Anh Hồ Văn H có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con số tiền 2.000.000 đồng/tháng. Thời hạn cấp dưỡng kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật đến khi cháu Hồ Văn Tiến D đủ 18 tuổi.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

Sau ly hôn, anh Hồ Văn H có quyền chăm sóc, thăm nom, giáo dục con, chị Nguyễn Thị Minh T không được cản trở anh Hồ Văn H thực hiện quyền này. Vì lợi ích về mọi mặt của con, khi một hoặc cả hai bên đương sự có yêu cầu, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và việc cấp dưỡng.

2. Về án phí dân sự sơ thẩm:

- Chị Nguyễn Thị Minh T phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn, được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0029355 ngày 02/10/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương.

- Anh Hồ Văn H phải chịu 300.000 đồng án phí cấp dưỡng nuôi con.

3. Đương sự được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự .

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại cá Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

182
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 170/2019/HNGĐ-ST ngày 29/11/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:170/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về