TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ N, TỈNH NAM ĐỊNH
BẢN ÁN 169/2019/HSST NGÀY 05/06/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 05 tháng 6 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố N, tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 163/2019/TLST-HS ngày 15 tháng 5 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 163/2019/QĐ-HSST ngày 24-5-2019 đối với bị cáo:
Trần Đình M, sinh năm 1960 tại tỉnh Nam Định; đăng ký hộ khẩu thường trú và nơi ở: Số 4/73/166 đường ĐB, phường C, thành phố N; nghề nghiệp: Tự do; trình độ văn hoá: 02/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Đình T (Đã chết) và con bà Phạm Thị H; chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 27-12-2007 Tòa án nhân dân thành phố N xử phạt 30 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Bị cáo bị bắt, tạm giữ từ ngày 26-02-2019 sau đó chuyển tạm giam đến nay tại Nhà tạm giữ Công an thành phố N; bị cáo có mặt tại phiên toà.
Người làm chứng: Anh Trần Xuân T, ông Trần Khắc P (Vắng mặt tại phiên tòa).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 10 giờ 15 phút ngày 26-02-2019, Tổ công tác Công an phường L, thành phố N, làm nhiệm vụ tại khu vực ven hồ TT, phường L, thành phố N phát hiện Trần Đình M đi xe đạp có biểu hiện nghi vấn nên đã yêu cầu dừng xe để kiểm tra. Quá trình kiểm tra M đã tự giác lấy trong túi áo khoác bên trái đang mặc giao nộp cho tổ công tác 02 gói nhỏ ni-lông màu đen, bên trong là lớp giấy bạc màu trắng, tổ công tác đã thu giữ, mở kiểm tra bên trong đều chứa chất bột dạng cục màu trắng (M khai là 02 gói Heroine). Tổ công tác đã tiến hành niêm phong vật chứng, đưa M và mời người làm chứng về trụ sở lập biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang theo quy định pháp luật. Ngoài ra còn tạm giữ của M xe đạp màu ghi đã cũ.
Bản kết luận giám định số 217/GĐKTHS ngày 01-3-2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định kết luận: Mẫu chất bột dạng cục màu trắng thu giữ của Trần Đình M được niêm phong gửi giám định là ma túy. Loại ma túy: Heroine. Khối lượng mẫu: 0,173 gam (Không phẩy một trăm bảy mươi ba gam).
Tại Cơ quan điều tra: Trần Đình M đã khai nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy với mục đích để sử dụng và khai nhận nguồn gốc 02 gói ma túy trên như sau: Khoảng 10 giờ 00 phút ngày 26-02-2019, M đi xe đạp từ nhà đến khu vực ngõ 75 đường Trần Thái Tông, phường Lộc Vượng, thành phố N mua của nam thanh niên (Không rõ lai lịch, địa chỉ) đang đứng giữa ngõ 02 gói ma túy với giá 100.000 đồng, sau đó cất vào túi áo khoác bên trái đi về để sử dụng. Khi đi đến khu vực ven hồ TT, phường L, thành phố N thì bị phát hiện bắt giữ như đã nêu trên.
Bản cáo trạng số 167/CT-VKS ngày 14-5-2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố N truy tố Trần Đình M về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên toà: Bị cáo Trần Đình M xác nhận trong quá trình điều tra, truy tố không bị Cơ quan tiến hành tố tụng ép cung, bức cung hay nhục hình. Bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như bản cáo trạng đã nêu là đúng và khai nhận biết rõ hành vi cất giữ trái phép ma túy là vi phạm pháp luật, bị Nhà nước nghiêm cấm nhưng do nghiện ma túy nên đã tàng trữ ma túy với mục đích để sử dụng cho bản thân. Bị cáo không khai báo thêm tình tiết mới và ăn năn hối cải đối với hành vi phạm tội của mình.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố N luận tội và tranh luận: Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo và thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Vì vậy, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Trần Đình M theo toàn bộ nội dung bản cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Trần Đình M phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
- Áp dụng Điểm c Khoản 1 Điều 249, Điểm s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự: Phạt bị cáo từ 24 tháng đến 27 tháng tù; miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
- Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự: Tịch thu tiêu huỷ số ma tuý đã thu giữ của bị cáo. Trả lại bị cáo 01 chiếc xe đạp màu ghi đã cũ nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.
Bị cáo không có ý kiến tranh luận. Bị cáo nói lời sau cùng đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, Người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, Người tiến hành tố tụng đã thực hiện trong vụ án đều hợp pháp.
[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Lời khai nhận tội của bị cáo Trần Đình M có trong hồ sơ vụ án và quá trình tranh tụng tại phiên tòa bị cáo đều thừa nhận hành vi phạm tội của mình, không có sự mâu thuẫn và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác như biên bản bắt người phạm tội quả tang; biên bản thu giữ vật chứng; bản kết luận giám định của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định; lời khai của những người làm chứng nên đã có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 10 giờ 15 phút ngày 26-02-2019, tại khu vực ven hồ TT, phường L, thành phố N, Trần Đình M đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,173 gam Heroine để sử dụng thì bị phát hiện bắt giữ. Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, gây mất trật tự an ninh xã hội trên địa bàn thành phố N, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý chất ma túy của Nhà nước. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực hành vi trách nhiệm hình sự, đã từng bị Tòa án nhân dân thành phố N xử phạt 30 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” vào năm 2007 (Đã được xóa án tích). Bị cáo biết rõ hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy” của mình là vi phạm pháp luật và bị Nhà nước nghiêm cấm nhưng vẫn cố ý thực hiện. Như vậy, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, việc truy tố và đưa ra xét xử bị cáo theo Điểm c Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự là đúng người đúng tội.
[3] Các tình tiết Hội đồng xét xử sẽ xem xét khi Quyết định hình phạt đối với bị cáo:
[3.1] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại Cơ quan điều tra và tại phiên toà, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đối với hành vi phạm tội của mình nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại Điểm s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
[3.2] Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nhưng là người có nhân thân xấu.
[4] Từ những phân tích, đánh giá nêu trên đối với hành vi phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy cần phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn để cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm giáo dục, cải tạo bị cáo và góp phần phòng ngừa chung.
[5] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo tàng trữ ma túy mục đích để sử dụng cho bản thân nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[6] Về xử lý vật chứng: Số ma túy trong phong bì niêm phong số 217/GĐKTHS là vật Nhà nước cấm tàng trữ nên tịch thu tiêu hủy. Đối với chiếc xe đạp màu ghi đã cũ xét thấy không liên quan đến vụ án và là tài sản cá nhân của bị cáo nên trả lại cho bị cáo nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.
Đối với đối tượng đã bán gói ma túy cho M, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố N chưa đủ căn cứ kết luận nên tách ra để tiếp tục điều tra, xử lý sau.
[7] Về án phí: Bị cáo bị kết án nên phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ vào Điểm c Khoản 1 Điều 249, Điểm s Khoản 1 Điều 51, Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:
Tuyên bố bị cáo Trần Đình M phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Xử phạt bị cáo Trần Đình M 24 (Hai bốn) tháng tù. Thời hạn tù của bị cáo tính từ ngày 26-02-2019.
2. Xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy số ma túy trong phong bì niêm phong số 217/GĐKTHS. Trả lại bị cáo chiếc xe đạp màu ghi đã cũ nhưng tạm giữ để bảo đảm thi hành án (Vật chứng có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng ngày 13-5-2019 giữa Công an thành phố N và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố N).
3. Án phí: Bị cáo Trần Đình M phải nộp 200.000 đ (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.
4. Quyền kháng cáo: Bị cáo Trần Đình M được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người phải thi hành án có quyền tự nguyện thi hành hoặc cưỡng chế thi hành án. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.
Bản án 169/2019/HSST ngày 05/06/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 169/2019/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Nam Định - Nam Định |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 05/06/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về