Bản án 169/2018/HS-ST ngày 01/11/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI BÌNH, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 169/2018/HS-ST NGÀY 01/11/2018 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 01 tháng 11 năm 2018 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 160/2018/HSST ngày 10 tháng 10 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 169/2018/QĐXXST- HS ngày 18/10/2018 đối với bị cáo:

Tạ Duy T; giới tính: Nam; sinh ngày 13/8/1997; nơi cư trú: Thôn 8, xã Đ, huyện V, tỉnh Thái Bình; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 7/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; con ông: Tạ Khiêm M, sinh năm 1974 và bà: Vũ Thị H, sinh năm 1980; mẹ kế: Nguyễn Thị S, sinh năm 1978; trú tại: Xã G - huyện L - tỉnh B; gia đình bị cáo có ba anh em, bị cáo là thứ nhất; chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 03/7/2018 đến ngày 12/7/2018 chuyển tạm giam cho đến nay; hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thái Bình, bị cáo bị trích xuất có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Phạm Minh P, sinh năm: 1954, trú tại: Thôn L, xã D, huyện T, tỉnh Thái Bình (vắng mặt).

- Người chứng kiến:

1. Ông Nhâm Văn T, sinh năm 1958, trú tại: Tổ 31, phường L, thành phố T, tỉnh Thái Bình (vắng mặt).

2. Ông Phạm Mạnh H, sinh năm 1950, trú tại: Tổ 33, phường Đ, thành phố T, tỉnh Thái Bình (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do có mục đích mua ma túy để bán kiếm lời, nên khoảng 02 giờ ngày 02/7/2018, Tại Duy T thuê xe taxi từ thành phố T đến khu vực cầu G, thuộc địa bàn huyện V, tỉnh Thái Bình thì xuống xe. Tại đây, Tạ Duy T gặp một người phụ nữ khoảng 40 tuổi không quen biết mua 2.000.000 đồng được 01 túi ma túy đá được gói trong túi nilon trong suốt rồi về thuê phòng 305 nhà nghỉ Y thuộc thôn Đ, xã B, huyện X, tỉnh Thái Bình nghỉ. Khoảng 17 giờ 30 phút ngày 03/7/2018, T mang theo túi ma túy và thuê taxi đi đến quảng trường thuộc tổ 01, phường L, thành phố T tìm người mua ma túy để bán. Khi T đang đi bộ ở khu vực quảng trường thì gặp tổ công tác thuộc Phòng cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Thái Bình phát hiện T có biểu hiện liên quan đến hoạt động ma túy nên đã yêu cầu kiểm tra. Trước sự chứng kiến của ông Phạm Mạnh H và ông Nhâm Văn T, T tự giác lấy từ trong túi quần bên phải ra 01 túi nilon trong suốt, bên trong chứa các hạt tinh thể trong suốt (T khai là ma túy đá để bán kiếm lời) và 01 chiếc điện thoại di động Masstel màu xanh đã cũ giao nộp cho tổ công tác. Tổ công tác niêm phong ma túy trong phong bì rồi đưa T và mời người chứng kiến về trụ sở Công an phường L, thành phố T để làm việc. Tại đây, Tổ công tác kiểm tra người của Tạ Duy T không thu giữ gì thêm. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Cùng ngày 03/7/2018, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Thái Bình đã tiến hành lệnh khám xét khẩn cấp chỗ ở tại phòng 305 nhà nghỉ Y thuộc xã B, huyện X, tỉnh Thái Bình của Tạ Duy T nhưng không phát hiện hay thu giữ gì thêm.

Bản kết luận giám định số 290/KLGĐ - PC54 ngày 04/7/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình kết luận: “Mẫu gửi giám định thu của Tạ Duy T là ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng 2,6181 gam (hai phảy sáu nghìn một trăm trăm tám mươi mốt gam).

Cáo trạng số 169/CT-VKSTP ngày 10/10/2018, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình truy tố Tạ Duy T về tội: "Mua bán trái phép chất ma túy" theo khoản 1 điều 251 Bộ luật hình sự.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận hành vi của mình như nội dung bản Cáo trạng đã nêu.

Tại phiên toà, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình giữ nguyên truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử :

Áp dụng khoản 1, khoản 5 điều 251; điểm s khoản 1 điều 51; điều 38; điều 50 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Tạ Duy T mức án từ 03 năm 06 tháng tù đến 04 năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 03/7/2018. Phạt bổ sung bị cáo từ 5.000.000đ đến 7.000.000đ để nộp vào ngân sách nhà nước.

- Về xử lý vật chứng: Áp dụng điều 47 Bộ luật Hình sự; điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự đề nghị:

+ Tịch thu tiêu hủy số ma túy thu của bị cáo còn lại sau giám định.

+ Trả lại bị cáo 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Masstel màu xanh đã cũ nhưng tiếp tục quản lý để đảm bảo thi hành án.

- Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo đồng ý với tội danh mà Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình đã truy tố, không tranh luận gì.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo rất ân hận về hành vi phạm tội của mình, đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng mức án nhẹ nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Bình và của Điều tra viên; của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình và của Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng trình tự, thủ tục, đúng thẩm quyền theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người chứng kiến không có ý kiến hay khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Vì vậy, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là đúng quy định của pháp luật.

[2] Tại phiên toà, bị cáo Tạ Duy T đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã khai tại cơ quan điều tra. Lời khai nhận tội của bị cáo được chứng minh bởi các chứng cứ khác như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang lập hồi 18 giờ 30 phút ngày 03/7/2018 tại trụ sở Công an phường L, thành phố T (bút lục số 03 - 04); biên bản niêm phong vật chứng lập ngày 03/7/2018 (bút lục số 38-39); bản kết luận giám định số 290/KLGĐ-PC54 ngày 04/7/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình (bút lục số 44); biên bản ghi lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Phạm Minh P (bút lục số 89- 90); biên bản ghi lời khai của người chứng kiến là ông Nhâm Văn T và ông Phạm Mạnh H (bút lục số 95-102). Cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Xét thấy lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người chứng kiến, phù hợp với các chứng cứ khác về thời gian, địa điểm, hành vi phạm tội. Như vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 18 giờ ngày 03/7/2018, tại khu vực quảng trường thuộc tổ 01, phường L, thành phố T, Tạ Duy T đã có hành vi tàng trữ trái phép 2,6181 gam (hai phảy sáu nghìn một trăm tám mươi mốt gam) ma tuý, loại Methamphetamine mục đích để bán kiếm lời thì bị phát hiện bắt quả tang. Vì vậy, bị cáo đã phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 điều 251 Bộ luật Hình sự như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình đã truy tố là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Điều 251 Bộ luật Hình sự quy định: Tội “Mua bán trái phép chất ma túy”: “1. Người nào mua bán trái phép chất ma tuý, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm…5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”.

[3] Xét tính chất mức độ hậu quả của hành vi phạm tội của bị cáo thì thấy: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ độc quyền quản lý chất gây nghiện của Nhà nước. Ma tuý đã gây ra những tác hại khôn lường cho sức khoẻ, trí tuệ, nhân cách và nòi giống con người, ma tuý còn gây ra biết bao hiểm hoạ nghiêm trọng khác cho xã hội, là nguồn gốc phát sinh hàng loạt các loại tội phạm, là tác nhân lan truyền đại dịch thế kỷ HIV-AIDS, là yếu tố phá vỡ hạnh phúc biết bao gia đình có người nghiện…Tội phạm mà bị cáo đã thực hiện là tội phạm nghiêm trọng, vì vậy Hội đồng xét xử phạt bị cáo mức án tương xứng với hành vi, phù hợp với tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo, cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định mới có tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo, và góp phần đấu tranh phòng ngừa tội phạm nói chung trong xã hội. Cần phạt bổ sung bị cáo từ 7.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng để sung vào ngân sách nhà nước.

[4] Xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thì thấy: Bị cáo Tạ Duy T có nhân thân tốt. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại khoản 1 điều 52 Bộ luật hình sự. Trong quá trình điều tra vụ án và tại phiên toà, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5] Về nguồn gốc số ma tuý: Bị cáo T khai mua của một người phụ nữ khoảng 40 tuổi không quen biết ở khu vực cầu G, thuộc địa bàn huyện V, tỉnh Thái Bình nên cơ quan điều tra không có căn cứ để điều tra xử lý.

[6] Về xử lý vật chứng: Số ma tuý thu giữ của bị cáo được hoàn lại sau giám định, cần tịch thu tiêu hủy; đối với 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Masstel màu xanh đã cũ thu giữ của bị cáo, xét thấy đây là tài sản không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo nên cần trả lại cho bị cáo nhưng giao cho Chi cục thi hành án dân sự thành phố T tiếp tục quản lý để đảm bảo thi hành án.

[7] Đối với số tiền 250.000 đồng mà bị cáo T còn nợ ông Phạm Minh P (quản lý nhà nghỉ Y), ông P không yêu cầu bị cáo phải trả số tiền này nên không đặt ra giải quyết.

[8] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

[9] Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1, khoản 5 điều 251; điểm s khoản 1 điều 51; điều 38; điều 50; điều 47 Bộ luật Hình sự; điều 106; điều 135; điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điều 21; điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016.

1. Về tội danh: Bị cáo Tạ Duy T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Tạ Duy T 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 03/7/2018.

Phạt bổ sung bị cáo Tạ Duy T 7.000.000đ (bảy triệu đồng) để sung vào ngân sách nhà nước.

3. Về xử lý vật chứng:

3.1. Tịch thu tiêu hủy số ma tuý thu giữ của bị cáo được hoàn lại sau giám định niêm phong trong phong bì số 290/KLGĐ-PC54.

3.2. Trả lại bị cáo Tạ Duy T 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Masstel màu xanh đã cũ nhưng giao cho Chi cục thi hành án dân sự thành phố T tiếp tục quản lý để đảm bảo thi hành án.

(Các vật chứng nêu trên Cơ quan điều tra đã chuyển sang Chi cục thi hành án dân sự thành phố T ngày 10/10/2018).

4. Về án phí: Bị cáo Tạ Duy T phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người phải thi hành án dân sự có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 7, 7a, 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

5. Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm 01/11/2018. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

246
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 169/2018/HS-ST ngày 01/11/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:169/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Bình - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 01/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về