TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN PHONG, TỈNH BẮC NINH
BẢN ÁN 169/2017/HSST NGÀY 24/11/2017 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ
Ngày 24 tháng 11 năm 2017, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số:148/2017/HSST ngày 13 tháng 10 năm 2017, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 165/HSST-QĐXX ngày 09/11/2017 đối với bị cáo:
Ngô Văn K - Sinh năm:1983.Nơi cư trú: khu phố Thịnh L, phường Đình B, thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ học vấn: 12/12. Dân tộc: kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: không. Con ông: Ngô Văn M – sinh năm 1959, và bà: Ngô Thị H – sinh năm 1961; Vợ: Đàm Thị H (đã ly hôn), con: chưa có. Tiền án, tiền sự: không.
Nhân thân:
+ Ngày 27/3/2012, Tòa án nhân dân thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh xử phạt K 18 tháng tù về tội "Cố ý gây thương tích".
+ Ngày 27/3/2012, Tòa án nhân dân thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh xử phạt K 24 tháng tù về tội "Gây rối trật tự công cộng". Tổng hợp cả hai bản án trên, K phải chấp hành 42 tháng tù. Đến ngày 12/01/2015, bị cáo chấp hành xong hình phạt tù.
Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 06/7/2017 đến nay tại Trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Ninh (Có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Chiều tối ngày 05/7/2017, khi đang đi chơi cùng nhau thì Nguyễn Hải L có nhờ Nguyễn Văn L mua hộ 500.000 đồng ma túy “đá” về để cùng sử dụng. Nguyễn Văn L sau đó đã dùng số điện thoại 01658070761 gọi điện vào số điện thoại 0969.922.929 của Ngô Văn K (K hiện đang mở quán bán nước ở khu đất giãn dân của thôn Yên Lãng – xã Yên Trung – huyện Yên Phong – tỉnh Bắc Ninh) hỏi mua 500.000 đồng tiền ma túy “đá”. K đồng ý và bảo đợi. Đến khoảng 19 giờ cùng ngày, Nguyễn Hải L và Nguyễn Văn L đến quán nước của K để mua ma túy. Do không có sẵn ma túy nên K đã bảo Nguyễn Thị H là nhân viên bán nước tại quán của K xuống Đình Bảng – Từ Sơn mua hộ K 500.000 đồng tiền ma túy “đá” và 100.000 đồng tiền ma túy “ngựa”. H nghĩ là K nhờ mua ma túy về để sử dụng nên đã đồng ý (do trước đó một thời gian, H đã cùng K sử dụng ma túy “đá”). Khi đi, K đưa cho H 600.000 đồng và không nói cho H biết việc nhờ H đi mua ma túy về để bán. H cầm tiền và bắt xe taxi lên thành phố Bắc Ninh để tắm giặt. Sau đó, H lại bắt xe taxi xuống cổng trường THPT Lý Thái Tổ - phường Đình Bảng để mua ma túy hộ K. Khi đến nơi, H hỏi một người đàn ông lái xe ôm không quen biết để mua ma túy thì được người đàn ông đó chỉ đến gặp một người đàn ông không quen biết. Khi gặp người đàn ông này, H hỏi mua 500.000 đồng tiền ma túy đá và 100.000 đồng tiền ma túy ngựa. Người đàn ông bảo H đợi. Khoảng 15 phút sau người đàn ông này quay lại và đưa cho H một gói giấy bọc ngoài bằng giấy bạc. H biết đó là gói ma túy nên H đã đưa lại cho người đàn ông đó 600.000 đồng. H bắt xe taxi về quán nước của K. Khoảng 22 giờ cùng ngày H về đến nơi và vào phòng ngủ đưa cho K gói ma túy vừa mua được. K bóc gói ma túy ra thì thấy có một túi nilon màu trắng chứa tinh thể màu trắng (ma túy “đá”) và 01 viên nén hình tròn màu hồng (ma túy “ngựa”). K chia số ma túy “đá” ra giấy nilon màu trắng cùng viên ma túy “ngựa”, bọc ngoài bằng giấy bạc màu trắng và đút vào túi quần phía trước bên phải K đang mặc. Sau đó, K gọi Nguyễn Hải L và Nguyễn Văn L (đang ngồi chờ ở quán của K) vào phòng. Trong phòng, K hỏi Hải L: “Tiền đâu?” thì Hải L đưa cho K một tờ tiền polime mệnh giá 500.000 đồng. K cầm tiền đút vào túi quần phía sau bên phải K đang mặc và đưa cho Nguyễn Hải L túi nilon đựng tinh thể màu trắng (ma túy “đá”). L cầm túi ma túy “đá” và đút vào túi quần phía trước L đang mặc. Đúng lúc này, lực lượng Công an ập vào bắt quả tang, thu giữ: 01 túi nilon màu trắng, bên trong có chứa các hạt tinh thể màu trắng trong túi quần phía trước bên trái của Nguyễn Hải L (L khai nhận đây là số ma túy “đá” vừa mua của K với giá 500.000 đồng) được niêm phong trong phong bì thư ký hiệu M1; 500.000 đồng ở túi quần phía sau bên phải K đang mặc (K khai đây là số tiền vừa bán ma túy “đá” cho L); 01 gói giấy bạc màu trắng bên trong có giấy nilon màu trắng chứa các hạt tinh thể màu trắng hồng và 01 viên nén hình tròn màu hồng trong túi quần phía trước bên phải K đang mặc (K khai đây là ma túy “đá”, “ngựa” K mua về để bán) được niêm phong trong phong bì thư ký hiệu M2.
Ngày 06/7/2017, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Yên Phong đã ra Lệnh khám xét khẩn cấp số 71 và tiến hành khám xét nơi ở, đồ vật, tài liệu đối với Ngô Văn K ở thôn Yên L – xã Yên T - huyện Yên Phong – tỉnh Bắc Ninh. Quá trình khám xét không thu giữ được gì liên quan đến tội phạm.
Tại bản Kết luận giám định số 933/KLGĐ-PC54 ngày 06/7/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Ninh kết luận:
- Chất tinh thể màu trắng bên trong phong bì thư ký hiệu M1 có trọng lượng 0,1634gam; Là ma túy; Loại ma túy: Chất Methamphetamine.
- Chất tinh thể màu trắng hồng bên trong phong bì thư ký hiệu M2 có trọng lượng 0,1574gam; Là ma túy; Loại ma túy: Chất Methamphetamine.
- 01 viên nén hình tròn màu hồng bên trong phong bì thư ký hiệu M2 có trọng lượng 0,1044gam; Là ma túy; Loại ma túy: Chất Methamphetamine”.
Tại phiên toà hôm nay, bị cáo Ngô Văn K khai nhận vào tối ngày 05/7/2017 bị cáo có nhờ Nguyễn Thị H là nhân viên bán nước tại quán của bị cáo đi mua giúp bị cáo ma túy tổng hợp đá và ngựa, bị cáo có đưa cho H 600.000 đồng để mua ma túy, khi nhờ H đi mua ma túy thì bị cáo không nói cho H biết mục đích bị cáo mua ma túy để làm gì. Đến khoản 22 giờ tối cùng ngày H mang ma túy về cho bị cáo gồm 01 túi nilon chứa tinh thể màu trắng và 01 viên nén hình tròn màu hồng, bị cáo có cầm và chia số ma túy tinh thể màu trắng ra giấy nilon màu trắng sau đó bị cáo có đem 01 túi nilon đựng tinh thể màu trắng ra bán cho một người con gái tên L với giá 500.000 đồng tại quán nước của bị cáo thì bị lực lượng công an vào bắt giữ. Bị cáo cho biết số ma túy còn lại mà lực lượng công an thu giữ tại túi quần bị cáo thì bị cáo cũng để nhằm mục đích để bán kiếm lời. Quá trình điều tra bị cáo đã tự nguyện khai báo hành vi phạm tội của mình, bị cáo không bị ép buộc, bức cung, mớm cung trong quá trình khai báo.Bị cáo thừa nhận cáo trạng truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội.
Bản cáo trạng số 144/CTr – VKS ngày 11/10/2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh truy tố Ngô Văn K về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận xác định hành vi bán trái phép chất ma túy của bị cáo cho đối tượng Nguyễn Hải L và hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy nhằm mục đích bán kiếm lời của bị cáo đã cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Dó đó, Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố Ngô Văn K phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46; Điều 33 Bộ luật hình sự, xử phạt: Ngô Văn K từ 28 tháng tù đến 30 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị tạm giữ 06/7/2017.
Về vật chứng: áp dụng Điều 41 Bộ luật hình sự. Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự.
Tịch thu sung công quỹ Nhà nước số tiền 500.000 đồng và 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 5 màu trắng sau lưng dán màu vàng đã qua sử dụng.
Tịch thu tiêu huỷ số ma túy thu được của đối tượng L và của bị cáo K còn lại sau giám định.
Trả lại bị cáo K 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105 màu đen đã qua sử dung song tạm giữ để đảm bảo việc thi hành án.
Sau khi nghe Kiểm sát viên luận tội, bị cáo không có ý kiến tranh luận.
Trong lời nói sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cở sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Yên Phong, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Phong, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.
Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên toà hôm nay hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang do công an huyện Yên Phong lập hồi 22h30’ ngày 05/7/2017, phù hợp với lời khai của những người làm chứng và vật chứng đã được thu giữ cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án thấy có đủ cơ sở kết luận Ngô Văn K có hành vi mua bán trái phép chất ma túy và tàng trữ trái phép chất ma túy với mục đích để bán. Do đó, bị cáo đã phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999. Tại phiên tòa Kiểm sát viên vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị xét xử bị cáo theo quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999 là hoàn toàn có căn cứ cần được chấp nhận.
Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý các chất gây nghiện của Nhà nước, xâm phạm đến tình hình trật tự trị an tại địa phương đồng thời là nguyên nhân làm gia tăng tệ nạn nghiện hút và các loại tội phạm khác gây dư luận bất bình trong quần chúng nhân dân do vậy cần phải xử lý nghiêm bị cáo bằng luật hình sự nhằm giáo dục riêng và phòng ngừa chung.
Ma túy là một trong những chất gây nghiện mang tác hại rất lớn đến cộng đồng và xã hội. Nghiện hút ma tuý là một trong những nguyên nhân gây ra căn bệnh thế kỷ Aids, mặt khác nó còn là nguyên nhân gây ra cảnh suy kiện về kinh tế cho các gia đình có đối tượng nghiện hút đồng thời là nguyên nhân làm suy kiệt giống nòi dân tộc. Bản thân bị cáo hoàn toàn nhận thức được điều đó, song để phục vụ cho nhu cầu ích kỷ của bản thân bị cáo đã đi mua ma túy là chất thuộc danh mục cấm được quy định tại Nghị định 82/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 của Chính phủ nhằm mục đích để bán lại cho đối tượng nghiện để kiếm lời.
Xem xét về nhân thân bị cáo thấy bản thân bị cáo đã từng bị các cấp Tòa án đưa ra xét xử cụ thể ngày 27/3/2012 bị Tòa án nhân dân thị xã Từ Sơn xử phạt 18 tháng tù về tội ‘cố ý gây thương tích” và 24 trhangs tù về tội :Gây rối trật tự công cộng”. Tổng hợp hình phạt của cả hai bản án bị cáo phải chấp hành mức hình phạt chung là 42 tháng tù, ngày 12/01/2015 bị cáo đã chấp hành xong quyết định của cả hai bản án tính đến nay đã được đương nhiên xóa án tích không bị coi là tiền án, nhưng qua đó thấy bị cáo là tên có nhân thân không tốt nay lại tiếp tục có hành vi phạm tội với lỗi cố ý vì vậy đối với bị cáo cần phải có mức hình phạt nghiêm khắc cách ly bị cáo với đời sống xã hội một thời gian nhất định mới đủ điều kiện để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt cho xã hội.
Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt cũng cần xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần bởi trong quá trình điều tra và tại phiên tòa đã khai báo thành khẩn đây là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự.
Ngoài ra xét thấy bị cáo mua bán trái phép chất ma túy lần đầu, không có tài sản riêng vì vậy Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
Về nguồn gốc chất ma túy, bị cáo khai do nhờ đối tượng Nguyễn Thị H mua của một người đàn ông không biết tên, tuổi, địa chỉ tại phường Đình Bảng, thị xã Từ Sơn. Do vậy cơ quan điều tra không có cơ sở điều tra, xác minh làm rõ.
Vật chứng vụ án: Đối với số tiền 500.000 đồng thu giữ của bị cáo, xét thấy đây là số tiền bị cáo bán ma túy cho Hải L mà có vì vậy cần tịch thu sung công quỹ Nhà nước.
Đối với số ma túy thu giữ của đối tượng Nguyễn Hải L và của bị cáo còn lại sau giám định cần tịch thu tiêu hủy.
Quá trình điều tra, cơ quan công an huyện Yên Phong có thu giữ của bị cáo K 01 chiếc điện thoại di dộng nhãn hiệu Iphone 5 và 01 chiếc điện thoại di dộng nhãn hiệu Nokia 105 xét thấy chiếc điện thoại di dộng Iphone 5 bị cáo đã sử dụng liên lạc vào việc mua bán trái phép chất ma túy vì vậy nay cần tịch thu sung công quỹ Nhà nước. Đối với chiếc điện thoại Nokia 105 không sử dụng vào việc phạm tội nên cần tuyên trả lại cho bị cáo song tạm giữ để đảm bảo việc thi hành án.
Liên quan đến vụ án này, còn có các đối tượng Nguyễn Hải L và Nguyễn Văn L đã có hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng. Tuy nhiên, trọng lượng ma túy 0,1634gam chất Methamphetamine chưa đủ để truy cứu trách nhiệm hình sự. Qua điều tra, xác minh tại thôn Trung Bạn – xã Đông Thọ - huyện Yên Phong không có ai tên là Nguyễn Hải L và Nguyễn Văn L có lý lịch như đã khai báo. Xác minh số điện thoại 01658070761 mà Văn L sử dụng để liên lạc mua ma túy thì chủ đăng ký mang tên Bùi Văn Đán – Sinh ngày: 24/4/1991 ở xã Hợp Thịnh – huyện Kỳ Sơn – tỉnh Hòa Bình. Qua xác minh tại xã Hợp Thịnh không quản lý nhân khẩu nào có lý lịch như trên. Do đó, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Yên Phong không có căn cứ để xử lý.
Đối với Nguyễn Thị H đã có hành vi đi mua ma túy cho K ngày 05/7/2017. Tuy nhiên, khi nhờ H, K không nói cho H biết việc đi mua ma túy về để bán. Bản thân H không biết việc K bán ma túy cho Nguyễn Văn L và Nguyễn Hải L. Tuy nhiên, trọng lượng ma túy 0,4252 gam chất Methamphetamine mà Hoa tàng trữ chưa đủ để truy cứu trách nhiệm hình sự. Ngày 30/8/2017, Công an huyện Yên Phong ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 120 đối với hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy của H; hình thức xử phạt: phạt tiền; mức phạt: 1.500.000 đồng là đúng quy định của pháp luật.
Đối với người đàn ông lái xe ôm và người đàn ông đã bán ma túy cho H ở cổng trường THPT Lý Thái Tổ: H khai không biết tên tuổi, địa chỉ cụ thể những người này nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Yên Phong không có cơ sở đề điều tra xác minh, làm rõ.
Đối với chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung thu giữ của H khi bị bắt quả tang: chiếc điện thoại trên là của H dùng vào việc liên lạc hàng ngày, không liên quan đến tội phạm. Ngày 28/9/2017, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Yên Phong đã trả lại cho H là đúng quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố: Bị cáo Ngô Văn K phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”.
Áp dụng khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46; Điều 33 Bộ luật hình sự năm 1999, xử phạt:
Ngô Văn K 30 tháng tù.Thời hạn tù được tính từ ngày bị tạm giữ 06/7/2017.
Căn cứ Điều 228 Bộ luật tố tụng hình sự: tạm giam bị cáo Ngô Văn K 45 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (24/11/2017) để đảm bảo việc thi hành án.
Về vật chứng vụ án: Áp dụng Điều 41 Bộ luật hình sự.Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Tịch thu sung công quỹ Nhà nước số tiền 500.000đ (Năm trăm nghìn đồng); 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 5 màu trắng sau lưng dán màu vàng đã qua sử dụng có số IMEI 990002814521975.
Trả lại bị cáo Ngô Văn K 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105 màu đen đã qua sử dụng, có số IMEI là 358965052418805 song tạm giữ để đảm bảo việc thi hành án.
Tịch thu tiêu huỷ chất ma túy Methamphetamine là mẫu vật còn lại sau giám định được niêm phong dán kín tại 01 phong bì thư của Phòng kỹ thuật hình sự – Công an tỉnh Bắc Ninh.
(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 17/10/2017 và Giấy nộp tiền vào tài khoản ngày 17/10/2017 giữa Công an huyện Yên Phong với Chi cục Thi hành án dân sự huyện Yên Phong).
Về án phí: Áp dụng Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự. Nghị quyết 326/NQ-QH14 ngày 30/12/2016 của Quốc hội khóa 14 quy định về án phí, lệ phí tòa án.
Bị cáo Ngô Văn K phải chịu 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.
Bản án 169/2017/HSST ngày 24/11/2017 về tội mua bán trái phép chất ma tuý
Số hiệu: | 169/2017/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Yên Phong - Bắc Ninh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 24/11/2017 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về