Bản án 168/2021/HNGĐ-ST ngày 08/06/2021 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ T, TỈNH TUYÊN QUANG

 BẢN ÁN 168/2021/HNGĐ-ST NGÀY 08/06/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

 Ngày 08 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Tuyên Quang, mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 340/2020/TLST-HNGĐ, ngày 27 tháng 10 năm 2020, về Tranh chấp hôn nhân và gia đình theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:15/2021/QĐST-HNGĐ ngày 20 tháng 4 năm 2021, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị HOÀNG THỊ D, sinh năm 1992;

Địa chỉ: Thôn Lùng Càng, xã P, huyện V, tỉnh Hà Giang.

(chị D có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt)

2. Bị đơn: Anh NGUYỄN TUẤN L, sinh năm 1990;

Địa chỉ: Thôn Phúc Lộc B, xã A, thành phố T, tỉnh Tuyên Quang.

(anh L đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt không có lý do)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện; Biên bản tự khai có lưu trong hồ sơ vụ án, nguyên đơn chị HOÀNG THỊ D trình bày: Tôi và anh NGUYỄN TUẤN L được tự do tìm hiểu, tự nguyện đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã A, thành phố T, tỉnh Tuyên Quang, vào ngày 03 tháng 7 năm 2015. Quá trình chung sống vợ chồng thời gian đầu hạnh phúc, đến khoảng 02 năm sau ngày kết hôn vợ chồng bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Đến năm 2018 do mâu thuẫn vợ chồng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, nên vợ chồng sống ly thân đến nay.

Tôi xác định tình cảm vợ chồng đã hết, mâu thuẫn vợ chồng xảy ra trầm trọng kéo dài, nên tôi yêu cầu Tòa án giải quyết cho tôi được ly hôn với anh NGUYỄN TUẤN L theo quy định của pháp luật.

Về con chung: Tôi và anh L có 01 người con chung là cháu Nguyễn Phương T, sinh ngày 14 tháng 10 năm 2015, khi ly hôn tôi đề nghị Toà án giải quyết cho tôi được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu Nguyễn Phương T; anh NGUYỄN TUẤN L không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng tôi.

Về tài sản chung: Tôi và anh NGUYỄN TUẤN L không có, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết khi ly hôn.

Về tài sản cho vay và tài sản vay nợ chung: Tôi và anh NGUYỄN TUẤN L không có, nên không yêu cầu giải quyết khi ly hôn.

Quá trình giải quyết vụ án, về chứng cứ chị D cung cấp cho Tòa án:

- 01 (Một) bản gốc Giấy chứng nhận kết hôn số: 21/2015, Quyển số 01 ngày 03/7/2015 của UBND xã A, thành phố T, tỉnh Tuyên Quang, cấp mang tên chồng NGUYỄN TUẤN L và mang tên vợ HOÀNG THỊ D.

- 01 Bản sao có chứng thực Giấy khai sinh mang tên Nguyễn Phương T, sinh ngày 14 tháng 10 năm 2015.

- 01 (Một) bản sao Giấy chứng minh nhân dân mang tên HOÀNG THỊ D.

- 01 (Một) bản sao Sổ hộ khẩu mang tên chủ hộ Vi Thị Lịch. Anh L không cung cấp tài liệu, chứng cứ gì.

Tòa án nhân dân thành phố T xác minh tại địa phương nơi đăng ký hộ khẩu thường trú của anh NGUYỄN TUẤN L được biết: Anh NGUYỄN TUẤN L và chị HOÀNG THỊ D là vợ chồng, anh L có hộ khẩu thường trú tại thôn Phúc Lộc B, xã A, thành phố T, tỉnh Tuyên Quang. Hiện nay anh L thường xuyên vắng mặt tại gia đình và địa phương, nhưng thi thoảng có về nhà. Đối với chị D là vợ của anh L công tác, sinh sống ở tỉnh Hà Giang. Từ năm 2019 đến nay anh L và chị D có xảy ra mâu thuẫn vợ chồng và ngày càng mâu thuẫn trầm trọng, nên anh L và chị D hiện đang sống ly thân. Về con chung anh L và chị D có 01 người con chung là Nguyễn Phương T, sinh năm 2015 hiện đang ở cùng chị D. Địa phương không thấy anh L và chị D có tài sản chung và không thấy có tài sản vay nợ chung.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án: Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Tuyên Quang, thụ lý và giải quyết vụ án dân sự sơ thẩm về việc Tranh chấp hôn nhân và gia đình là đúng thẩm quyền, đúng nội dung tranh chấp. Tòa án xác định tư cách đương sự, và tiến hành các thủ tục tố tụng theo đúng trình tự của pháp luật quy định. Các phần tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã được Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa tiến hành theo đúng trình tự, đúng pháp luật tố tụng quy định; ý thức chấp hành pháp luật của nguyên đơn là chị D đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự; bị đơn là anh L chưa chấp hành đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố T, tỉnh Tuyên Quang, đề nghị Hội đồng xét xử:

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 56; Điều 58; 81; 82; 83 của Luật hôn nhân và gia đình. Khoản 1 Điều 28; khoản 4 Điều 147; Điều 207; 228; khoản 1 Điều 235; Điều 238; 266;267; 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự. Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

* Tuyên xử:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị HOÀNG THỊ D được ly hôn với anh NGUYỄN TUẤN L.

- Về con chung: Giao cháu Nguyễn Phương T, sinh ngày 14 tháng 10 năm 2015 cho chị HOÀNG THỊ D trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Anh L không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị D và có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

- Chị HOÀNG THỊ D phải chịu toàn bộ tiền án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Anh NGUYỄN TUẤN L không phải chịu tiền án phí sơ thẩm.

- Các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Chị HOÀNG THỊ D và anh NGUYỄN TUẤN L được tự do tìm hiểu, tự nguyện đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã A, thành phố T, tỉnh Tuyên Quang, vào ngày 03 tháng 7 năm 2015, nên đây là hôn nhân hợp pháp. Về tình cảm vợ chồng thời gian đầu chung sống hạnh phúc, đến năm 2017 vợ chồng bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Đến năm 2018 do mâu thuẫn căng thẳng không thể cùng nhau xây dựng hạnh phúc, nên vợ chồng sống ly thân. Căn cứ vào đơn khởi kiện và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, xét thấy vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Tuyên Quang, theo quy định của pháp luật.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Xét thấy chị D và anh L có mâu thuẫn căng thẳng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, thực tế vợ chồng sống ly thân từ năm 2018 đến nay, nên chấp nhận toàn bộ đơn và yêu cầu của chị D là được ly hôn với anh L theo quy định tại khoản 1 Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình.

[3] Về con chung: Chị D và anh L có 01 người con là cháu Nguyễn Phương T, sinh ngày 14 tháng 10 năm 2015. Xét thấy cháu Nguyễn Phương T tính đến ngày xét xử sơ thẩm là người chưa đủ 18 tuổi, nên cần có người trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục; từ trước đến nay cháu Thảo thường xuyên sinh sống, học tập ổn định ở Hà Giang với chị D. Do vậy, chấp nhận yêu cầu của chị D là giao cháu Thảo cho chị D trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Chị D tự nguyện không yêu cầu anh L đóng góp phí tổn nuôi con chung, không có tranh chấp, nên không giải quyết khi ly hôn theo quy định của pháp luật. Anh L có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở là có căn cứ theo Điều 58, 81, 82, 83 của Luật hôn nhân và gia đình và phù hợp với thực tế.

[4] Về tài sản chung đương sự xác định không có, nên không xem xét giải quyết theo quy định của pháp luật.

[5] Về tài sản cho vay và tài sản vay nợ chung đương sự xác định không có, nên không xem xét giải quyết theo quy định của pháp luật.

[6] Đối với anh L quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã triệu tập hợp lệ nhiều lần, nhưng anh L đều vắng mặt không có lý do. Qua xác minh mẹ đẻ của anh L là bà Trần Thị T cho biết anh L hiện đi làm ăn ở tỉnh miền Trung (không rõ địa chỉ), anh L vẫn về nhà khi gia đình có việc. Do vậy không lấy được ý kiến của anh L; không tiến hành hoà giải cho hai bên đương sự được và anh L thuộc trường hợp cố tình che giấu địa chỉ, nên Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Tuyên Quang, giải quyết việc chị D xin ly hôn với anh L theo quy định của pháp luật.

[7] Về án phí: Chị D phải chịu toàn bộ tiền án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định tại khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về việc quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí của Toà án.

Anh L không phải chịu tiền án phí sơ thẩm.

[8] Nguyên đơn là chị D có đơn đề nghị xét xử vắng mặt; bị đơn là anh L đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt không có lý do, nên xét xử vắng mặt chị D và anh L theo Điều 238 của Bộ luật tố tụng dân sự quy định.

Các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 56; Điều 58; 81; 82; 83 của Luật hôn nhân và gia đình. Khoản 1 Điều 28; khoản 4 Điều 147; Điều 207; 228; khoản 1 Điều 235; Điều 238; 266;267; 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự. Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

* Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị HOÀNG THỊ D được ly hôn với anh NGUYỄN TUẤN L.

2. Về con chung: Giao cháu Nguyễn Phương T, sinh ngày 14 tháng 10 năm 2015 cho chị HOÀNG THỊ D trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Anh NGUYỄN TUẤN L không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị HOÀNG THỊ D và có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

3. Về án phí: - Chị HOÀNG THỊ D phải chịu tiền án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng), nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng), tại Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2019/0000695 ngày 27 tháng 10 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố T, tỉnh Tuyên Quang. Chị HOÀNG THỊ D đã nộp đủ tiền án phí.

- Anh NGUYỄN TUẤN L không phải chịu tiền án phí sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Chị HOÀNG THỊ D và anh NGUYỄN TUẤN L được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

291
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 168/2021/HNGĐ-ST ngày 08/06/2021 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:168/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Tuyên Quang - Tuyên Quang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 08/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về