Bản án 168/2019/HNGĐST ngày 15/11/2019 về xin ly hôn và con chung

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BUÔN MA THUỘT, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 168/2019/HNGĐST NGÀY 15/11/2019 VỀ XIN LY HÔN VÀ CON CHUNG

Ngày 15 tháng 11 năm 2019, tại Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 474/2019/TLST- HNGĐ ngày 24 tháng 6 năm 2019 về tranh chấp hôn nhân gia đình theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 196/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 25 tháng 10 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 141/2019/QĐST-HNGĐ ngày 30/10/2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Bùi Thị Thanh P – Sinh năm: 1983 (Có mặt) Địa chỉ: 150 đường Q, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.

2. Bị đơn: Ông Tạ Lâm T – Sinh năm: 1983 ( Vắng mặt).

Đa chỉ: 218 đường N, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Về quan hệ hôn nhân: Bà Bùi Thị Thanh P và ông Tạ Lâm T tự nguyện lấy nhau có đăng ký kết hôn vào ngày 17/02/2014 tại Ủy ban nhân dân phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk. Quá trình chung sống vợ chồng thường xảy ra nhiều mâu thuẫn. Nguyên nhân do bất đồng quan điểm sống, ông T không chăm lo cho gia đình, không quan tâm đến vợ con nên vợ chồng thường hay cãi vã nhau dẫn đến tình cảm nguôi lạnh và vợ chồng sống ly thân nhau từ tháng 4/2019 cho đến nay. Nay bà P xét thấy bản thân không thể tiếp tục chung sống với ông T được nữa nên khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn với ông T. Về con chung: Trong quá trình chung sống, bà P và ông T có 02 con chung là cháu Tạ Nguyên A - Sinh ngày: 06/4/2014 và cháu Tạ Nguyên K - Sinh ngày:

21/6/2018.

Bà P có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng và chăm sóc hai con chung là cháu A và cháu K đến tuổi trưởng thành. Bà P không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con chung hàng tháng.

Về tài sản chung và nợ chung: Bà P không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Quá trình giải quyết Tòa án đã triệu tập ông Tạ Lâm T để làm việc và hòa giải theo quy định của pháp luật nhưng ông T đều vắng mặt không có lý do nên không tiến hành hòa giải được.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thẩm quyền và quan hệ tranh chấp: Căn cứ đơn khởi kiện của bà Bùi Thị Thanh P, Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột xác định quan hệ pháp luật tranh chấp là tranh chấp về hôn nhân và gia đình được quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền.

[2] Về thủ tục tố tụng: Bị đơn ông Tạ Lâm T đã được Toà án tống đạt hợp lệ Quyết định đưa vụ án ra xét xử và Quyết định hoãn phiên toà nhưng vẫn vắng mặt tại phiên toà không có lý do. Vì vậy, Hoäi đồng xét xử căn cứ khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự, tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn ông T.

[3] Về nội dung vụ án: Căn cứ vào lời trình bày của bà P và các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án có đủ cơ sở xác định:

Về quan hệ hôn nhân: Bà P ông T tự nguyện lấy nhau có đăng ký kết hôn vào ngày 17/02/2014 tại Ủy ban nhân dân phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk theo quy định của pháp luật. Như vậy quan hệ hôn nhân giữa bà P ông T là quan hệ hôn nhân hợp pháp được pháp luật công nhận và bảo vệ. Về tình trạng hôn nhân của bà P ông T thì trong quá trình chung sống với nhau phát sinh nhiều mâu thuẫn. Nguyên nhân do bất đồng quan điểm sống, ông T không chăm lo cho gia đình, không quan tâm đến vợ con nên vợ chồng thường hay cãi vã nhau dẫn đến tình cảm nguôi lạnh nên bà P và ông T đã sống ly thân từ tháng 4/2019 cho đến nay. Nay bà P xét thấy bản thân không thể tiếp tục chung sống với ông T được nữa. Nên bà P khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn với ông T.

Qua kết quả xác minh tại chính quyền địa phương cho biết: Bà P ông T trước đây sinh sống tại tổ dân phố 12, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk. Về mâu thuẫn vợ chồng thì quá trình chung sống tại địa phương, ông T bà P có xảy ra mâu thuẫn. Tuy nhiên bà P, ông T không yêu cầu địa phương tiến hành hòa giải đoàn tụ gia đình.

Tại biên bản xác minh nơi ông T sinh sống thì được chính quyền địa phương cho biết hiện ông T đang cư trú tại tổ dân phố 9, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk. Tuy nhiên ông T thường xuyên đi làm vắng nhà nên Tòa án không tiến hành tống đạt trực tiếp các văn bản tố tụng cho ông T được.

Hi đồng xét xử xét thấy mâu thuẫn vợ chồng bà P, ông T xảy ra trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên yêu cầu của bà P xin ly hôn với ông T là có căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân gia đình, cần chấp nhận.

Về con chung: Bà P và ông T có 02 con chung là cháu Tạ Nguyên A - Sinh ngày: 06/4/2014 và cháu Tạ Nguyên K - Sinh ngày: 21/6/2018 Bà P có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng và chăm sóc cháu A và cháu K đến tuổi trưởng thành. Quá trình giải quyết vụ án thì ông T đều vắng mặt tại Tòa án. HĐXX xét thấy cháu A và cháu K đều còn nhỏ, qua kết quả xác minh tại chính quyền nơi ông T cư trú thì ông T cũng thường đi làm vắng nhà nên đây cũng là một trong các điều kiện không đảm bảo việc nuôi dưỡng con chung. Hiện nay thì cháu A và cháu K đang ở với bà P để con chung được nuôi dưỡng và chăm sóc đầy đủ và xét nguyện vọng của bà P nên HĐXX cần giao 02 con chung cháu Tạ Nguyên A - Sinh ngày: 06/4/2014 và cháu Tạ Nguyên K - Sinh ngày: 21/6/2018 cho bà P nuôi dưỡng là phù hợp.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Bà P không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung nên Toà án không đặt ra xem xét giải quyết.

Về tài sản chung: Bà P không yêu cầu Tòa án giải quyết nên HĐXX không xem xét, giải quyết.

[4] Về án phí: Bà Bùi Thị Thanh P phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147; Điều 203; Khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự;

- Căn cứ các Điều 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Căn cứ Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà Bùi Thị Thanh P. Bà Bùi Thị Thanh P được ly hôn với ông Tạ Lâm T.

Về con chung: Giao cháu Tạ Nguyên A- Sinh ngày: 06/4/2014 và cháu Tạ Nguyên K - Sinh ngày: 21/6/2018 cho bà Bùi Thị Thanh P trực tiếp nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành.

Ông Tạ Lâm T được quyền đi lại thăm nom chăm sóc con chung không ai được quyền ngăn cản. Về cấp dưỡng nuôi con chung: Bà P không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung nên HĐXX không xem xét giải quyết.

Về tài sản chung: Bà P không yêu cầu Tòa án giải quyết nên HĐXX không xem xét, giải quyết.

Về án phí: Bà Bùi Thị Thanh P phải chịu 300.000 đồng án phí HNGĐST được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí mà bà P đã nộp theo biên lai số: AA/2019/0001777 ngày 18/6/2019 tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.

Ông Tạ Lâm T không phải chịu tiền án phí.

Nguyên đơn có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày niêm yết hoặc nhận bản án hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

223
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 168/2019/HNGĐST ngày 15/11/2019 về xin ly hôn và con chung

Số hiệu:168/2019/HNGĐST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Buôn Ma Thuột - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về