TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN, TỈNH THÁI NGUYÊN
BẢN ÁN 167/2021/HS-ST NGÀY 13/05/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 13 tháng 5 năm 2021 tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 160/2021/TLST-HS ngày 08 tháng 4 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 186/2021/QĐXXST-HS ngày 29 tháng 4 năm 2021 đối với bị cáo:
Họ và tên: Trần Ngọc H, tên gọi khác: Không; Sinh ngày 19/8/1991; Nơi sinh: Thái Nguyên; Nơi đăng ký HKTT và chỗ ở: Tổ 5, phường Q, thành phố T, tỉnh Thái Nguyên; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hóa: 12/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông: Trần Văn A, đã chết, con bà: Nguyễn Thị B, sinh năm 1970; Vợ con chưa có; Gia đình có 2 anh em, bị cáo là con thứ nhất;
Tiền án: 1 (Tại bản án số 304/2011/HSST ngày 26/8/2011 của Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên xử phạt Trần Ngọc H 12 tháng tù về tội: “Trộm cắp tài sản”. H chưa bồi thường số tiền 5.000.000 đồng cho bị hại);
Tiền sự: Không;
Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 07/01/2021 cho đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thái Nguyên. Có mặt tại phiên tòa.
* Những người tham gia tố tụng khác:
- Người chứng kiến: Anh Đinh Văn C, sinh năm 1986 (vắng mặt) Trú tại: Xóm D, xã TĐ, TP T, tỉnh Thái Nguyên.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
1 Hồi 17 giờ ngày 07/01/2021, tổ công tác của Công an xã TĐ, thành phố T đang làm nhiệm vụ tại khu vực đường dân sinh, thuộc tổ 04, phường TĐ, thành phố T thì phát hiện 01 nam thanh niên có biểu hiện liên quan đến ma tuý, tổ công tác tiến hành kiểm tra. Đối tượng tự khai tên là Trần Ngọc H, phát hiện tại túi quần phía sau bên phải H đang mặc có 01 túi nilon màu trắng, bên trong chứa chất tinh thể màu trắng và 01 viên nén màu hồng (H khai là ma túy tổng hợp dạng đá và ma túy tổng hợp “ngựa”). Tổ công tác tiến hành thu giữ, niêm phong vật chứng và lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.
Cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố T tiến hành mở niêm phong, cân xác định khối lượng: số chất bột màu trắng thu giữ của H:
- Chất tinh thể màu trắng có khối lượng 0,182 gam, gửi giám định, ký hiệu H2;
- Viên nén màu hồng có khối lượng 0,110 gam, gửi giam định, ký hiệu H3.
Tại bản Kết luận giám định số 236/KL-KTHS ngày 15/01/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên kết luận: Mẫu chất tinh thể màu trắng trong bì niêm phong ký hiệu H2 gửi giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng là 0,182 gam; 01 viên nén màu hồng trong bì niêm phong ký hiệu H3 gửi giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng là 0,110 gam.
Tại Cơ quan điều tra Trần Ngọc H khai nhận: Khoảng 16 giờ 30 phút ngày 07/01/2021, H bắt xe taxi từ nhà đến khu vực đường dân sinh phường TĐ, thành phố T, mục đích mua ma túy về sử dụng cho bản thân. Khi đến nơi, H xuống xe gặp một nam thanh niên không rõ lai lịch địa chỉ, mua 01 gói nilon, bên trong chứa chất tinh thể màu trắng và 01 viên nén màu hồng với giá 200.000 đồng. Mua xong, H cầm số ma túy trên cho vào túi quần phía sau bên phải đang mặc đi về đến khu vực đường dân sinh, thuộc tổ 04 phường TĐ, thành phố T thì bị tổ công tác Công an xã TĐ, thành phố T bắt quả tang và thu giữ vật chứng.
Vật chứng vụ án gồm: 02 (hai) bì niêm phong theo quy định, ký hiệu H2, H3 bên trong chứa ma túy còn lại sau giám định. Hiện được bảo quản tại kho vật chứng của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thái Nguyên chờ xử lý Tại bản cáo trạng số 170/CT-VKSTPTN ngày 08/4/2021 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên đã truy tố Trần Ngọc H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên sau khi phân tích nội dung vụ án, đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội cũng như nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo đã giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Trần Ngọc H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”:
Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Đề nghị Hội đồng xét xử, xử phạt bị cáo từ 24 đến 30 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
Áp dụng Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 46, Điều 47 Bộ luật hình sự: Tịch thu tiêu hủy 02 phong bì niêm phong còn nguyên vẹn ký hiệu H2, H3..
Áp dụng Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án, buộc bị cáo phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định.
Trong phần tranh luận, bị cáo không có ý kiến tranh luận gì với đại diện Viện Kiểm sát.
Trong phần lời nói sau cùng, bị cáo xin được hưởng mức án thấp nhất.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Hồi 17 giờ ngày 07/01/2021 tại tổ 4, phường TĐ, thành phố T, tổ công tác của Công an xã TĐ, thành phố T bắt quả tang Trần Ngọc H đang có hành vi tàng trữ 0,292 gam Methamphetamine để sử dụng cho bản thân nhưng chưa kịp sử dụng thì bị phát hiện và thu giữ vật chứng.
Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với biên bản bắt giữ người phạm tội quả tang, lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người chứng kiến, vật chứng đã thu giữ, bản kết luận giám định và những tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Xét thấy, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến các quy định của Nhà nước về quản lý và sử dụng các chất ma túy, là nguyên nhân làm phát sinh các tệ nạn xã hội và các loại tội phạm khác, gây mất trật tự trị an ở địa phương. Vì vậy, việc truy tố để xét xử đối với bị cáo về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.
Nội dung Điều 249 Bộ luật hình sự quy định như sau:
“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận cHển ..., thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm” ...
c) Methaphetamine... có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;
[2]. Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, Hội đồng xét xử thấy:
Bị cáo chưa tiền sự, là đối tượng nghiện chất ma túy.
Tại bản án số 304/2011/HSST ngày 26/8/2011 của Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên, bị cáo bị xử phạt 12 tháng tù về tội: “Trộm cắp tài sản”, bị cáo chưa chấp hành xong phần bồi thường dân sự nên chưa được xóa án tích, lần phạm tội này thuộc trường hợp tái phạm, do đó bi cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.
Tuy nhiên, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, có thái độ ăn năn hối cải nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Trên cơ sở xem xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội, Hội đồng xét xử thấy, cần áp dụng mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, buộc cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung.
Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự, bị cáo còn có thể phải chịu hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên, bị cáo cất giữ ma tuý với mục đích để sử dụng cho bản thân, không có mục đích bán để kiếm lời, mặt khác bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, không có tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[3]. Vật chứng của vụ án: Đối với 02 phong bì niêm phong kí hiệu H2, H3 (bên trong có chứa Methaphetamine còn lại sau giám định) là vật chứng của vụ án không có giá trị và giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.
[4] Về án phí, quyền kháng cáo: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm sung quỹ Nhà nước theo quy định tại Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật. Cần tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.
[5]. Quá trình khởi tố vụ án, điều tra, truy tố và xét xử, Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự; bị cáo và những người tham gia tố tụng khác trong vụ án không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.
Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa về điều luật áp dụng, hình phạt và các nội dung khác đối với bị cáo là có căn cứ, tương xứng với hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo.
Trong vụ án này, bị cáo khai đã mua ma túy của 01 nam thanh niên không rõ lai lịch, địa chỉ ở khu vực đường dân sinh thuộc phường TĐ, thành phố T, do không xác định được lai lịch địa chỉ của người đàn ông này nên cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Nguyên không có đủ cơ sở để điều tra, làm rõ.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ Điều 326 Bộ luật tố tụng hình sự, Tuyên bố: Bị cáo Trần Ngọc H phạm tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
1. Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự;
Xử phạt: Trần Ngọc H 30 (ba mươi) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 07/01/2021. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
Áp dụng Điều 329 Bộ luật Tố tụng hình sự, tiếp tục tạm giam bị cáo 45 (bốn mươi lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.
2. Vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy: 02 phong bì niêm phong còn nguyên vẹn ký hiệu H2, H3.
(Số vật chứng nêu trên đang được bảo quản tại kho của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Thái Nguyên. Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng ngày 08/4/2021 giữa cơ quan Công an thành phố Thái Nguyên và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thái Nguyên).
3. Án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án: Buộc bị cáo Trần Ngọc H phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm nộp ngân sách Nhà nước.
4. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án.
Bản án 167/2021/HS-ST ngày 13/05/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 167/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Thái Nguyên - Thái Nguyên |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 13/05/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về