TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK
BẢN ÁN 167/2021/HSPT NGÀY 30/06/2021 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
Ngày 30 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 144/2021/TLPT-HS ngày 19 tháng 5 năm 2021, đối với bị cáo T khác về tội “Cố ý gây thương tích”, do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 13/2021/HSST ngày 07/04/2021, của Tòa án nhân dân huyện EaH’Leo, tỉnh Đắk Lắk.
Bị cáo có kháng cáo:
Họ và tên: T (Tên gọi khác: Y Chai); sinh năm: 2001; tại tỉnh Đăk Lăk; nơi đăng ký HKTT và nơi cư trú: Buôn Y, xã C, huyện E, tỉnh Đắk Lắk; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ học vấn: 6/12; giới tính: Nam; dân tộc: Gia Rai; tôn giáo: Tin Lành; con ông B, sinh năm 1969 và bà M, sinh năm 1968; tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo được Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện E áp dụng biện pháp cấm đi khởi nơi cư trú từ ngày 03/11/2020. Đến ngày 26/02/2021 bị cáo bị bắt tạm giam. Hiện đang tạm giam, có mặt tại phiên tòa.
Người bào chữa cho bị cáo T: Ông Nguyễn Hữu H - Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Đắk Lắk; địa chỉ: 39 L, thành phố BMT, tỉnh Đắk Lắk (có mặt).
Ngoài ra trong vụ án còn có bị cáo Đ và bị cáo K nhưng không có kháng cáo và không bị kháng cáo, kháng nghị.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào tối ngày 07/9/2020, T cùng với Đ, K và một số người bạn đi đến khu vực suối Ea Wy, thuộc thôn 10, xã C, huyện E, tỉnh Đắk Lắk, chơi và uống rượu. Sau đó, thì có T1, N và Đ đi đến và cùng ngồi uống rượu với nhau. Trong lúc uống rượu thì Đ chê mồi nhậu dở nên T bực tức rủ Đ, K bỏ về trước. Khi về thì K điều khiển xe mô tô 47P3-0556 (mượn của D) chở T ngồi sau, còn Đ điều khiển xe mô tô 47D1-046.55 (mượn của K1) đi một mình. Trên đường đi về, T rủ Đ và K đánh Đ thì Đ và K đồng ý. Khi đi đến đoạn đường trước cửa lò than thuộc Thôn 10B, xã C, huyện E thì Đ, K dừng xe mô tô lại. Tại đây, T nhặt 01 cây le dài khoảng 03 m, bẻ thành 03 khúc, rồi đưa cho Đ và K mỗi người một khúc. Đ và K đem xe mô tô đi dấu cách đường đi khoảng 40m. T nhặt thêm một khúc cây bằng gỗ, hình tròn dài khoảng 40 cm, to khoảng 5 cm rồi đi qua phía lề đường bên phải theo hướng từ suối Ea Wy về buôn Y, xã C đứng đợi, còn Đ và K đứng đợi ở đường vào lò than. Lúc này, N Siu điều khiển xe mô tô loại Exciter 150cc (xe mượn của Đ1) chở Tr ngồi giữa, T1 ngồi sau, khi xe mô tô đi đến gần khu vực lò than thì T thấy đèn xe và nghe tiếng pô xe nên biết đó là xe mô tô của Đđang đi đến. Khi xe mô tô do N điều khiển đi đến cách vị trí của T đang đứng khoảng 6 m thì T cầm khúc gỗ ném vào người điều khiển xe nhưng khúc gỗ trúng vào vùng má bên trái của T1 làm T1 ngã xuống đường. Thấy vậy, thì T, Đ và K chạy vào vườn cây cà phê gần đó trốn, nhưng nghe tiếng của T1 la đau nên T và Đ1 đi ra xem thì thấy T1 đang ngồi giữa đường mặt bị chảy máu nên T dùng lá cây cầm máu cho T1, còn Đ1 và K đi báo cho người nhà của T1 đưa T1 đi cấp cứu tại Bệnh viện đa khoa vùng Tây Nguyên Tại bán kết luận giám định pháp y về thương tích số 1051/TgT-TTPY, ngày 04/10/2020, của Trung tâm pháp y sở Y tế Đắk Lắk, kết luận: T1, sinh năm 2003, địa chỉ buôn Y, xã C, huyện E, tỉnh Đắk Lắk, tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 19%.
Vật tác động từng vết thương: Vết thường vùng má trái, thông vào khoang miệng cách khoé miệng 02 cm, xơ cứng dính để lại 02 sẹo; Mất răng: R2, R25, R35: Vật tày cứng có cạnh.
Trầy xước vùng lưng để lại sẹo: Sẹo nham nhở vùng vai phải; Sẹo nham nhở vùng lưng trái cạnh cột sống sát bờ trong xương bả vai trái; Sẹo lưng trái sát cột sống ngực; Sẹo lưng phải sát cột sống ngực; Sẹo vùng lưng trái cách cột sống thắt lưng 7cm, cách màu chậu trái 4cm; Sẹo vùng lưng phải cách cột sống thắt lưng 2 cm, cách màu chậu phải 2 cm; Sẹo vùng lưng phải cách cột sống thắt lưng 2 cm;
cách màu chậu phải 2 cm: Vật tày có bề mặt không bằng phẳng.
Tại bản án hình sự sơ thẩm số 13/2021/HSST ngày 07/4/2021, của Tòa án nhân dân huyện EaH’leo, tỉnh Đắk Lắk, đã quyết định:
Các bị cáo T, Đ và K phạm tội “Cố ý gây thương tích”.
Căn cứ điểm a, i khoản 1 và điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1 khoản 2 Điều 51; điểm o khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.
Xử phạt: Bị cáo T 02 (Hai) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 26/02/2021.
Ngoài ra bản án sơ thẩm còn quyết định về hình phạt đối với bị cáo Đ, K, tuyên về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo của các bị cáo và các đương sự theo quy định của pháp luật.
Ngày 14/4/2021, bị cáo T có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo giữ nguyên nội dung đơn kháng cáo và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung vụ án vừa nêu trên.
Tại phiên tòa đại điện Viện kiểm sát đã phân tích, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo và cho rằng: Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự là có căn cứ đúng người, đúng tội. Xét mức hình phạt 02 năm tù mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt đối với bị cáo là thỏa đáng, tương xứng với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đã được xem xét và áp dụng đầy đủ, tại phiên tòa hôm nay bị cáo không cung cấp được tình tiết giảm nhẹ nào mới nên kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo là không có cơ sở để chấp nhận. Đề nghị HĐXX áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo T, giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số 13/2021/HS- ST ngày 07/4/2021 của Tòa án nhân dân huyện Ea H’Leo, tỉnh Đắk Lắk.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Người bào chữa cho bị cáo cho rằng: Bị cáo có hoàn cảnh gia đình rất khó khăn, bị cáo sinh sống ở nơi có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn, nhận thức pháp luật của bị cáo còn kém, sau khi phạm tội bị cáo đã cố gắng vay mượn để bồi thường cho bị hại, bị cáo có nhân thân tốt. Đề nghị HĐXX chấp nhận đơn kháng cáo của bị cáo, cho bị cáo được hưởng một mức án nhẹ nhất có thể để bị cáo có thể sớm làm lại cuộc đời.
Bị cáo không bào chữa, tranh luận gì chỉ đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa là phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, có đủ căn cứ để kết luận: Do ý thức coi thường pháp luật, coi thường sức khỏe của người khác nên vào khoảng 22 giờ 30 phút ngày 07/9/2020, T cùng với Đ và K dùng khúc cây gỗ là hùng khí nguy hiểm ném trúng vào vùng má bên trái của T1, hậu quả làm T1 bị thương tích với tỷ lệ 19%. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo T cùng các bị cáo khác về tội cố ý gây thương tích theo điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[2] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của các bị cáo, Hội đồng xét xử thấy rằng: Mức hình phạt 02 năm tù mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt đối với bị cáo là thỏa đáng, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra. Bị cáo là người khởi xướng và rủ rê bị cáo K là người chưa thành niên phạm tội, thương tích của người bị hại T1 trực tiếp do bị cáo gây ra. Do đó, cần áp dụng đối với bị cáo một mức hình phạt thật nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định mới đủ tác dụng răn đe, giáo dục bị cáo đồng thời thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật. Khi quyết định hình phạt, Tòa án cấp sơ thẩm cũng đã xem xét và áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ và cho bị cáo được hưởng mức hình phạt thấp nhất của khung hình phạt. Sau khi xét xử sơ thẩm và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo không cung cấp thêm được tình tiết giảm nhẹ nào mới. Do vậy, kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo là không có căn cứ để chấp nhận.
[4] Về án phí hình sự phúc thẩm: Do không được chấp nhận kháng cáo nên bị cáo T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm. Tuy nhiên do bị cáo thuộc hộ nghèo và đã có đơn xin miễn giảm án phí nên được miễn toàn bộ án phí hình sự phúc thẩm.
[5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị tiếp tục có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
[1] Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự; Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo T (Y Chai).
Giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số 13/2021/HS - ST ngày 07/4/2021, của Tòa án nhân dân huyện EaH’Leo, tỉnh Đắk Lắk về hình phạt.
[2] Điều luật áp dụng và hình phạt:
Căn cứ điểm a, i khoản 1 và điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1 khoản 2 Điều 51; điểm o khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.
Xử phạt bị cáo T (Y Chai) 02 (hai) năm tù về tội Cố ý gây thương tích. Thời hạn chấp hành hình phạt được tính từ ngày bắt tạm giam, ngày 26/02/2021.
[4] Về án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo T được miễn án phí hình sự phúc thẩm.
[5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[6] Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 167/2021/HSPT ngày 30/06/2021 về tội cố ý gây thương tích
Số hiệu: | 167/2021/HSPT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Đăk Lăk |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 30/06/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về