Bản án 166/2021/HS-ST ngày 10/06/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

 BẢN ÁN 166/2021/HS-ST NGÀY 10/06/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

 Ngày 10 tháng 6 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số:127/2021/TLST-HS ngày 29 tháng 4 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 155/2021/QĐXXST-HS ngày 27 tháng 5 năm 2021 đối với bị cáo:

Lại Đức H, sinh năm 1984 tại tỉnh T; thường trú: Thôn 3, xã T, huyện H, tỉnh T; nghề nghiệp: Bốc xếp; trình độ học vấn: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; con ông Lại Đức M, sinh năm 1954 (đã chết) và bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1951 (đã chết); có 03 anh chị ruột, lớn nhất sinh năm 1978, nhỏ nhất sinh năm 1982; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân:

- Ngày 30/9/2008 Tòa án nhân dân huyện T (nay là thành phố T), tỉnh B xử phạt 15 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản theo Bản án số 316/2008/HSST, chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 29/4/2009;

- Ngày 04/3/2010 Tòa án nhân dân thị xã B, tỉnh T xử phạt 08 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản theo bản án số 07/2010/HSST, chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 01/8/2010;

- Ngày 10/5/2012 Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh L xử phạt 04 năm tù về tội Trộm cắp tài sản theo bản án số 33/2012/HSST.

- Ngày 15/5/2015 Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh T xử phạt 27 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản. Tổng hợp hình phạt 04 năm tù của Bản án số 33/2012/HSST ngày 10/5/2012 Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh L thành hình phạt chung của 02 bản án là 06 năm 03 tháng tù theo bản án số 36/2015/HSST, chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 02/7/2017.

Bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 15/01/2021 cho đến nay, vắng mặt, có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Anh Nguyễn Văn V, sinh năm 1989; địa chỉ: 1/15 khu phố T, phường T, thành phố D, tỉnh B, vắng mặt, có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt;

2. Chị Lê Thị N, sinh năm 1989; địa chỉ: 1/15 khu phố T, phường T, thành phố D, tỉnh B, vắng mặt.

- Người chứng kiến: Anh Lê Văn T, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 17 giờ 00 phút ngày 15/01/2021, Lại Đức H đi bộ đến khu vực cầu vượt B, thành phố T, Thành phố H gặp một người đàn ông không rõ nhân thân lai lịch hỏi mua 200.000 đồng ma túy loại heroin để trong 01 đoạn ống hút nhựa hàn kín. Khi mua xong H đi bộ vào trong khu vực chợ Đầu Mối lấy một ít ra sử dụng, còn lại H hàn kín lại và cất vào túi quần trước bên phải. Sau đó H đón xe Grab đến nhà người quen ở khu phố C, phường T, thành phố D, tỉnh B để dự tiệc thôi nôi. Đến khoảng 23 giờ 30 phút cùng ngày, H nhờ Lê Văn T chở ra đường lớn để đón xe Grab về chợ Đầu Mối Thủ Đức. T mượn xe mô tô biển số 61D1-263.65, số máy 1DR1-032804, số khung RLCN1DR10CY032802 của anh Nguyễn Văn V để chở H ra đường lớn. Khi đến trước số nhà 501/3C khu phố C, phường T, thành phố D, tỉnh B, Công an phường T yêu cầu dừng xe kiểm tra và phát hiện trong túi quần phía trước bên phải của H có 01 đoạn ống hút nhựa hàn kín hai đầu bên trong có chất bột màu trắng. H khai nhận là ma túy loại heroin mua về sử dụng nên Công an phường T tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và đưa về trụ sở làm việc. Sau đó chuyển giao cho Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố D xử lý theo thẩm quyền.

Vật chứng thu giữ: 01 đoạn ống hút hàn kín 02 đầu chứa chất bột màu trắng có khối lượng 0,1038 gam và 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Nozza màu xanh biển số 61D1-263.65.

Kết luận giám định số 31/MT-PC09 ngày 22/01/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B kết luận: Mẫu chất màu trắng gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,1038 gam, loại Heroine.

Quá trình điều tra bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về Kết luận giám định số 31/MT-PC09 ngày 22/01/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công An tỉnh B.

Bản Cáo trạng số 146/CT-VKS-DA ngày 27 tháng 4 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân thành phố D, tỉnh B truy tố bị cáo Lại Đức H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, trong phần tranh tụng đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố theo toàn bộ nội dung cáo trạng đã nêu, đánh giá tính chất mức độ hành vi phạm tội, tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Lại Đức H mức án từ 01 (một) năm 09 (chín) tháng đến 02 (hai) năm tù.

Về biện pháp tư pháp, xử lý vật chứng và trách nhiệm dân sự:

- 01 bì thư được niêm phong bên ngoài ghi số 31/PC09, bên trong chứa tinh thể màu trắng là ma túy loại Heroin có trọng lượng 0,0653 gam mẫu vật hoàn lại sau giám định là tang vật của vụ án đề nghị Hội đồng xét xử tuyên tịch thu tiêu hủy.

- 01 xe nhãn hiệu Yamaha Nozza màu xanh, biển số 61D1-263.65 là tài sản hợp pháp của anh Nguyễn Văn V, anh V cho Lê Văn T mượn để chở H, không biết H sử dụng vào việc phạm tội nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố D trả lại xe cho anh V. Anh V không yêu cầu bồi thường gì khác nên trách nhiệm dân sự không đặt ra xem xét.

Đối với Lê Văn T không biết việc Lại Đức H tàng trữ trái phép chất ma túy nên không xử lý. Tuy nhiên, qua kiểm tra phát hiện T dương tính với chất ma túy nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố D ra quyết định xử phạt hành chính đối với T về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy.

Đối với người đàn ông đã bán ma túy cho Lại Đức H hiện chưa rõ nhân thân, lai lịch nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố D tiếp tục xác minh, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau.

Quá trình tố tụng, bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án anh Lê Văn V có đơn xin vắng mặt và bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Tại phiên tòa, bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án đều vắng mặt nên không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát về điều luật áp dụng, khung hình phạt, xử lý vật chứng và trách nhiệm dân sự.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố D, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố D, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình tố tụng, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án anh Lê Văn V có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án chị Lê Thị N đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không lý do, tuy nhiên tại cơ quan điều tra chị Lê Thị N đã có lời khai, 01 xe nhãn hiệu Yamaha Nozza màu xanh biển số 61D1-263.65 do chị N đứng tên đã được trả cho anh Nguyễn Văn V là chồng của chị N và sự vắng mặt của chị N không ảnh hưởng đến quá trình giải quyết vụ án. Do đó, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt những người tham gia tố tụng theo quy định tại Điều 290 và 292 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

[2] Về căn cứ xác định bị cáo phạm tội: Căn cứ vào lời khai của bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án; biên bản bắt người phạm tội quả tang ngày 15/01/2021, Kết luận giám định số 31/MT-PC09 ngày 22/01/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B và những chứng cứ, tài liệu được thu thập trong hồ sơ vụ án, xác định: Khoảng 23 giờ 30 phút ngày 15/01/2021, trước số nhà 501/3C khu phố C, phường T, thành phố D, tỉnh B, lực lượng Công an phường T tuần tra và phát hiện Lại Đức H có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy có khối lượng 0,1038 gam, loại Heroin.

Như vậy, hành vi tàng trữ ma túy có khối lượng 0,1038 gam, loại heroin của bị cáo Lại Đức H với mục đích để sử dụng đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Do đó, Cáo trạng số 146/CT-VKS-DA ngày 27 tháng 4 năm 2021 của Viện kiểm sát thành phố D, tỉnh B truy tố bị cáo c ng như bản luận tội của Kiểm sát viên ngày hôm nay đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Tính chất, mức độ của hành vi phạm tội: Tội phạm do bị cáo thực hiện là nghiêm trọng, đã trực tiếp xâm phạm đến sự quản lý độc quyền của Nhà nước về chất ma túy, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự nhận thức rõ hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo với mức án tương xứng với tính chất mức độ tội phạm đã thực hiện, có xét đến các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo.

[4] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có.

[5] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Xét trong quá trình tố tụng bị cáo Lại Đức H đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[6] Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu thể hiện bị cáo H đã từng bị xử phạt tù về tội Trộm cắp tài sản, đã được xóa án tích, nay lại phạm tội thể hiện sự không hướng thiện của bản thân c ng như việc chấp hành pháp luật. Do đó c ng cần xem xét khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.

[7] Về hình phạt:

Hình phạt chính: Xét bị cáo phạm tội nghiêm trọng, đã xâm phạm vào sự quản lý độc quyền của Nhà nước về chất ma tuý đồng thời bị cáo là người sử dụng trái phép chất ma túy, hành vi phạm tội của bị cáo gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương.Vì vậy Hội đồng xét xử quyết định áp dụng hình phạt tù đối với bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ để giáo dục, cải tạo bị cáo thành công dân có ích cho gia đình, xã hội và có tác dụng đấu tranh, phòng ngừa chung.

Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”. Tuy nhiên, áp dụng phạt tù c ng đủ để răn đe, giáo dục bị cáo nên Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[8] Về biện pháp tư pháp, xử lý vật chứng và trách nhiệm dân sự:

Xét 01 (một) bì thư được niêm phong bên ngoài ghi số 31/PC09, bên trong chứa tinh thể màu trắng là ma túy loại Heroin có trọng lượng 0,0653 gam mẫu vật hoàn lại sau giám định là vật cấm lưu thông nên cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 xe nhãn hiệu Yamaha Nozza màu xanh, biển số 61D1-263.65 là tài sản hợp pháp của anh Nguyễn Văn V, anh V cho Lê Văn T mượn để chở H, không biết H sử dụng vào việc phạm tội nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố D trả lại xe cho anh V là phù hợp.

Anh Nguyễn Văn V đã nhận lại xe và không yêu cầu bồi thường gì khác nên trách nhiệm dân sự Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[9] Đối với Lê Văn T không biết việc Lại Đức H tàng trữ trái phép chất ma túy nên cảnh sát điều tra Công an thành phố D không xử lý là phù hợp. Tuy nhiên, Lê Văn T dương tính với chất ma túy, việc Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố D ra quyết định xử phạt hành chính đối với T về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy là đúng quy định của pháp luật.

Đối với người đàn ông đã bán ma túy cho Lại Đức H hiện chưa rõ nhân thân, lai lịch nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố D tiếp tục xác minh, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau là phù hợp.

[10] Đối với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát thành phố D, tỉnh B đưa ra tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân, mức hình phạt đối với bị cáo H c ng như việc xử lý vật chứng là phù hợp với quan điểm của Hội đồng xét xử do vậy được chấp nhận.

[11] Án phí sơ thẩm: Bị cáo H phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc Hội khoá 14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Lại Đức H phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Lại Đức H 01 (một) năm 09 (chín) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 15/01/2021.

2. Về biện pháp tư pháp và xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 46, điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 89; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu tiêu hủy 01 bì thư được niêm phong bên ngoài ghi số 31/PC09, bên trong chứa tinh thể màu trắng là ma túy loại Heroin có trọng lượng 0,0653 gam mẫu vật hoàn lại sau giám định là tang vật của vụ án.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 28/4/2021 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố D với Chi cục thi hành án dân sự thành phố D).

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Lại Đức H phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

146
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 166/2021/HS-ST ngày 10/06/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:166/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về