TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Đ, TỈNH ĐIỆN BIÊN
BẢN ÁN 165/2021/HSST NGÀY 18/06/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 21/6/2021 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Đ, tỉnh Điện Biên xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 177/2021/HSST ngày 13/5/2021 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 164/2021/QĐXX-HS ngày 04/6/2021 đối với bị cáo:
1. Họ và tên: Lò Văn T. Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam.
Sinh năm 1978. Tại Điện Biên Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Bản H, xã T, huyện Đ, tỉnh Điện Biên. Dân tộc: Thái; Quốc tịch: Việt nam. Tôn giáo: Không.
Nghề nghiệp: Làm ruộng. Trình độ văn hóa: Không Con ông: Lò Văn H, sinh năm 1948: Con bà: Lò Thị L, sinh năm 1950. Bị cáo chung sống như vợ chồng với Lò Thị T từ năm 1995 đến năm 2018. Bị cáo có 02 con; con lớn sinh năm 2001, con nhỏ sinh năm 2007. Tiền án, tiền sự: Không: Nhân thân: Ngày 27/8/2011 bị đi cơ sở giáo dục với thời hạn 24 tháng đến ngày 30/4/2013 chấp hành xong trở về địa phương. Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 28/3/2021. Bị cáo có mặt tại phiên toà.
2. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Lò Văn T, Sinh năm 1986.
Trua tại: Bản H, xã T, huyện Đ, tỉnh Điện Biên.(vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 17 giờ 45 phút ngày 28/3/2021, tại bản H xã T, huyện Đ tổ công tác Công an huyện Đ phát hiện bắt quả tang Lò Văn T đang cất giấu trên người 0,37 gam Heroine với mục đích để sử dụng cho bản thân. Nguồn gốc số Heroine bị thu giữ có được là do khoảng 07 giờ ngày 28/3/2021 Lò Văn T đang ở nhà có Lò Văn T sinh năm 1986 trú cùng bản là cháu họ của T đến thuê Tâm xây chuồng lợn, hai bên thỏa thuận T sẽ trả công 200.000đ/1 ngày. T đồng ý sau đó đi bộ đến nhà T để xây chuồng lợn. Đến khoảng 17 giờ 30 phút cùng ngày thì T xây xong, do T nghiện chất ma túy nên T nói với T có Heroine cho T cũng được. T đồng ý rồi đưa cho T 01 gói Heroine được gói bên ngoài bằng nilon màu trắng, miệng buộc thắt nút tương đương với số tiền công làm thuê của T là 200.000đ, T cất gói Heroine vào trong túi áo ngực bên trái đang mặc rồi đi bộ về nhà. Hồi 17 giờ 45 phút cùng ngày, khi Tâm vừa đi ra đến cổng nhà của Lò Văn T thì bị tổ công tác Công an huyện Đ phát hiện bắt quả tang thu giữ 01 gói Heroine.
Tại biên bản mở niêm phong xác định khối lượng ngày 29/3/2021 đã xác định: Số cục bột màu trắng nghi Heroine có khối lượng 0,37 gam trích mẫu 0,07 gam gửi giám định.
Tại bản kết luận giám định số 377/GĐ-PC09 ngày 06/4/2021 Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên đã kết luận: Mẫu chất bột màu trắng trích ra từ vật chứng thu giữ của Lò Văn T gửi giám định là chất ma túy loại Heroine không hoàn lại đối tượng giám định.
Tại bản cáo trạng số 126/CT-VKSĐB ngày 12/5/2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên đã truy tố bị cáo Lò Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Điểm c Khoản 1 Điều 249/BLHS.
Tại phiên tòa, đại diện VKSND huyện Đ vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội danh, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: Điểm c Khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51/BLHS. Xử phạt bị cáo Lò Văn T từ 15 tháng đến 18 tháng tù về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy". Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Áp dụng Điểm c Khoản 1 Điều 47/BLHS năm 2015; Điểm a Khoản 2 Điều 106/BLTTHS năm 2015 về xử lý vật chứng.
Áp dụng khoản 2 Điều 136/BLTTHS và Điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 về án phí, lệ phí Tòa án bị cáo phải chịu án phí HSST.
Tại phiên tòa bị cáo Lò Văn T một lần nữa khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã trình bày ở trên. Bị cáo hoàn toàn nhất trí với quan điểm truy tố và luận tội của VKSND huyện Đ, không có ý kiến tranh luận. Lời nói sau cùng của bị cáo: Ngoài xin giảm nhẹ hình phạt không có ý kiến gì khác.
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà. Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, lời khai của bị cáo tại phiên tòa.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1]. Xét hành vi phạm tội của bị cáo thấy rằng: Lò Văn T là đối tượng nghiện chất ma túy.
Khoảng 17 giờ 45 phút ngày 28/3/2021, tại bản H xã T, huyện Đ tổ công tác Công an huyện Đ phát hiện bắt quả tang Lò Văn T đang cất giấu trên người 0,37 gam Heroine với mục đích để sử dụng cho bản thân. Nguồn gốc số Heroine bị thu giữ có được là do khoảng 07 giờ ngày 28/3/2021 Lò Văn T đang ở nhà có Lò Văn T sinh năm 1986 trú cùng bản là cháu họ của T đến thuê T xây chuồng lợn, hai bên thỏa thuận T sẽ trả công 200.000đ/1 ngày. T đồng ý sau đó đi bộ đến nhà T để xây chuồng lợn. Đến khoảng 17 giờ 30 phút cùng ngày thì T xây xong, do T nghiện chất ma túy nên T nói với T có Heroine cho T cũng được. T đồng ý rồi đưa cho T 01 gói Heroine được gói bên ngoài bằng nilon màu trắng, miệng buộc thắt nút tương đương với số tiền công làm thuê của T là 200.000đ, T cất gói Heroine vào trong túi áo ngực bên trái đang mặc rồi đi bộ về nhà thì bị bắt quả tang cùng 01 gói Heroine.
Hành vi phạm tội của bị cáo đã hoàn thành và được thực hiện bằng lỗi cố ý trực tiếp. Vật chứng thu giữ của bị cáo đã được cân xác định khối lượng là 0,37 gam kết luận giám định là chất ma túy loại Heroine. Lời khai của bị cáo hoàn toàn phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản mở niêm phong xác định khối lượng; Kết luận giám định; Kết luận điều tra, các bản cung có trong hồ sơ vụ án cũng như cáo trạng đã truy tố đối với bị cáo. Từ những chứng cứ nêu trên đủ cơ sở kết luận: Hành vi tàng trữ 0,37 gam Heroine trên người mục đích để sử dụng của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 249/BLHS.
Cáo trạng của VKSND huyện Đ đã truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Bị cáo có đầy đủ năng lực để chịu trách nhiệm hình sự trước pháp luật về hành vi phạm tội của mình đã gây ra.
[2]. Xét tính chất mức độ phạm tội của bị cáo thì hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là hành vi nguy hiểm cho xã hội, tội phạm mà bị cáo thực hiện thuộc trường hợp nghiêm trọng làm ảnh hưởng đến trật tự trị an, an toàn xã hội. Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma tuý. Bị cáo nhận thức được tác hại của ma tuý, nhận thức được hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý là vi phạm pháp luật. Song vì nhu cầu của bản thân bị cáo đã bất chấp và cố tình vi phạm. Nên cần phải xử lý bị cáo nghiêm minh theo quy định của pháp luật.
[3]. Xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ cho thấy:
Bị cáo sinh ra và lớn lên tại xã T, huyện Đ, bản thân không được đi học bị cáo sử dụng ma túy từ năm 2011. Ngày 27/8/2011 bị đi cơ sở giáo dục với thời hạn 24 tháng đến ngày 30/4/2013 chấp hành xong trở về địa phương. Bi cáo chưa có tiền án, tiền sự. Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo, nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51/BLHS.
HĐXX xét thấy bị cáo là đối tượng nghiện chất ma túy nên cần áp dụng hình phạt tù cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để tiếp tục giáo dục, cải tạo và có thời gian cai nghiện ma túy.
[4]. Ngoài hình phạt chính là phạt tù thì bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung theo khoản 5 Điều 249/BLHS là phạt tiền từ 05 triệu đồng đến 500 triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Xét kinh tế bị cáo khó khăn, bản thân lại nghiện chất ma tuý. Nên không có điều kiện để thi hành. Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
Đối với Lò Văn T theo bị cáo khai là người trả công 01 gói Heroine do bị cáo xây chuồng lợn cho T. Tại cơ quan điều tra T không thừa nhận hành vi của mình nên không đủ cơ sở để kết luận T có liên quan đến vụ án, do vậy HĐXX không xem xét.
[5]. Về hành vi và các Quyết định của cơ quan người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, Điều tra viên, kiểm sát viên. Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục đảm bảo theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến khiếu nại gì do đó các hành vi, quyết định tố tụng của những người tiến hành tố tụng là hợp pháp được chấp nhận.
[6]. Vật chứng của vụ án cần áp dụng Điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015; Điểm a Khoản 2 Điều 106/BLTTHS năm 2015 về xử lý vật chứng.
Tịch thu tiêu huỷ: 0,37 gam Heroine đã trích 0,07 gửi giám định không hoàn lại.
[7].Về án phí: Căn cứ Khoản 2 Điều 136/BLTTHS năm 2015 và Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 về án phí lệ phí Tòa án bị cáo Lò Văn T phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51/BLHS.
1. Tuyên bố: Bị cáo Lò Văn T phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”
2. Xử phạt bị cáo Lò Văn T 15 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ ( 28/03/2021).
3. Vật chứng: Căn cứ: Điểm c Khoản 1 Điều 47/BLHS; Điểm a Khoản 2 Điều 106/BLTTHS. Tịch thu tiêu huỷ: 0,37 gam Heroine đã trích 0,07 gửi giám định không hoàn lại. (Vật chứng đã được Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đ chuyển cho Chi cục thi hành án dân sự huyện Đ vào ngày 12/5/2021).
4. Về án phí: Căn cứ Khoản 2 Điều 136/BLTTHS năm 2015 và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 về án phí, lệ phí Tòa án bị cáo Lò Văn T phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 18/6/2021).
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo phần bản án liên quan đến quyền lợi nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án chính hoặc bản án được niêm yết.
Bản án 165/2021/HSST ngày 18/06/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 165/2021/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Điện Biên - Điện Biên |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 18/06/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về