TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 1, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 165/2020/HS-ST NGÀY 07/12/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Bản án 165/2020/HS-ST ngày 07/12/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Ngày 07 tháng 12 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 180/2020/HSST ngày 19 tháng 11 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 1221/2020/QĐXXST- HS ngày 20 tháng 11 năm 2020 đối với bị cáo:
Lâm Văn T, sinh năm 1965 tại Thành phố Hồ Chí Minh; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: 300/1 đường M, Phường N, quận Y, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: Chạy xe ôm; Trình độ học vấn: 09/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Thiên chúa; Quốc tịch: Việt Nam; Số CMND: 021831016; Chưa biết tên cha, mẹ là bà Lâm Thị N (chết); Hoàn cảnh gia đình: có vợ tên Phạm Thị Y và có 01 người con 14 tuổi; Tiền án: Không: Tiền sự: Ngày 23/7/2018, bị Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh ra Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại Trung tâm cai nghiện ma túy Bố Lá trong thời gian 15 tháng theo Quyết định số 296/2018/QĐ-TA, đến ngày 09/8/2019, chấp hành xong quyết định về địa phương (BL: 75 – 79); Nhân thân: Ngày 22/8/2000, bị Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 05 năm tù về tội "Chứa mãi dâm" theo bản án số 2201/HSST, đến ngày 01/9/2002 được đặc xá tha tù trước thời hạn (đã được xóa án tích, BL: 61 – 66); Ngày 09/8/2006, bị Công an quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh bắt giữ về hành vi “Môi giới mại dâm”, Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 06 năm tù theo bản án số 224/2006/HSST ngày 28/11/2006, đến ngày 24/01/2011, chấp hành xong hình phạt tù về địa phương (đã được xóa án tích, BL: 67 – 71); Ngày 20/8/2016, bị Công an Phường 21 quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt hành chính về hành vi “Gây rối trật tự công cộng” theo Quyết định số 19973/QĐ-XPHC ngày 24/8/2016. Bị cáo bị bắt và tạm giam từ ngày 11/8/2020, có mặt tại phiên tòa.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Bà Lê Thị R, sinh năm 1959; Địa chỉ: 208, tổ 8, khu phố A, phường B, thị xã N, tỉnh Tây Ninh (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Do có nhu cầu sử dụng ma túy, nên vào khoảng 10 giờ 30 phút ngày 11/8/2020, Lâm Văn T điều khiển xe môtô biển số 70K8-1331 từ nhà đến hẻm số 199 Đề Thám, phường Phạm Ngũ Lão, Quận 1 mua 01 gói và 01 đoạn ống nhựa chứa heroine với giá 150.000 đồng của một người đàn ông (không rõ lai lịch) tại trước nhà số 119/13 Đề Thám, phường Phạm Ngũ Lão, Quận 1. Sau đó, Tiến cất số ma túy vừa mua được vào trong túi quần phía sau, bên phải đang mặc rồi điều khiển xe đi về. Đến khoảng 11 giờ 50 phút cùng ngày, khi Tiến điều khiển xe mô tô đến trước nhà số 119 Nguyễn Thái Học, phường Cầu Ông Lãnh, Quận 1 thì bị tổ công tác gồm các anh Nguyễn Minh Hùng và Phạm Đức Thắng (là cán bộ thuộc đội Cảnh sát điều tra tội phạm về Ma túy – Công an Quận 1) đi tuần tra địa bàn phát hiện thấy Tiến có biểu hiện nghi vấn liên quan đến ma túy nên yêu cầu dừng xe về trụ sở Cơ quan Công an làm rõ. Tại Công an phường Cầu Ông Lãnh, Quận 1, có anh Phạm Quốc Bảo (là dân quân tự vệ) chứng kiến kiểm tra người Tiến phát hiện trong túi quần phía sau, bên phải Tiến đang mặc có 01 gói nylon và 01 đoạn ống nhựa đều chứa bột màu trắng (Tiến khai là Heroine để sử dụng) nên tổ công tác thu giữ vật chứng, giao Tiến cho Công an phường Cầu Ông Lãnh, Quận 1 lập biên bản phạm tội quả tang, rồi chuyển Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an Quận 1 xử lý. (BL: 28 – 29) Ngày 18/8/2020, Phòng Kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh có kết luận giám định số 1385/KLGĐ-H như sau: 01 gói được niêm phong bên ngoài có chữ ký ghi tên Lâm Văn T và hình dấu Công an Phường Cầu Ông Lãnh, Quận 1, bên trong có:
- Bột màu trắng trong 01 gói nylon là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,0809 gam, loại Heroine;
- Bột màu trắng trong 01 ống nhựa là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,0470 gam, loại Heroine. (BL: 19) Quá trình điều tra, Lâm Văn T khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu trên, lời khai của Tiến phù hợp với lời khai nhân chứng, vật chứng thu giữ và các tài liệu chứng cứ mà cơ quan điều tra đã thu thập được. (BL: 80 – 94) Đối với người đàn ông bán ma túy cho Tiến, qua điều tra chưa xác định được nhân thân lai lịch, Cơ quan điều tra đang tiếp tục xác minh làm rõ, khi nào có căn cứ sẽ xử lý sau.
* Vật chứng vụ án gồm có:
- 01 gói niêm phong bên trong có 0,1279 gam ma túy ở thể rắn, loại Heroine.
- Thu giữ của Lâm Văn T: 01 điện thoại di động hiệu Nokia đã qua sử dụng, là tài sản của Tiến; 01 xe môtô biển số 70K8-1331, qua giám định có số khung, số máy nguyên thủy không thay đổi. Qua xác minh do bà Lê Thị R (sinh năm: 1959, nơi cư trú: C20/4B ấp Hiệp An, xã Hiệp Tân, huyện Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh) đứng tên đăng ký sở hữu. Bà Răng cho biết xe môtô trên bà Răng mua vào năm 2005, sử dụng được 02 năm bà Răng đã bán lại cho người khác (không rõ lai lịch) có làm hợp đồng mua bán xe nhưng đã làm mất. Lâm Văn T khai nhận xe môtô trên mượn của người em tên thường gọi là Út Lai (không rõ lai lịch) vào khoảng tháng 8/2020 để sử dụng làm phương tiện đi lại và hành nghề chạy xe ôm nhưng không giao giấy tờ xe. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 1 đã đăng báo tìm chủ sở hữu nhưng đến nay không có ai đến trình báo và liên hệ làm việc.
Hiện Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an Quận 1 đang tạm giữ các vật chứng trên.
Tại bản cáo trạng số 184/CT-VKSQ1 ngày 17 tháng 11 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố Lâm Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 1 giữ quyền công tố tại phiên tòa sau khi phân tích hành vi phạm tội, tính chất, mức độ nguy hiểm và hậu quả của hành vi phạm tội do bị cáo thực hiện, nêu ý kiến kết luận như sau:
+ Giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo Tiến như nội dung bản cáo trạng. Việc xét hỏi tại phiên tòa đối với bị cáo đã đủ cơ sở xác định hành vi của bị cáo đã đủ các yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015.
+ Đề nghị áp dụng điểm c khoản 1, khoản 5 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt Lâm Văn T từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù và áp dụng hình phạt bổ sung phạt bị cáo số tiền 5.000.000 đồng nộp sung công quỹ nhà nước. Về xử lý vật chứng: Đề nghị xử lý theo quy định pháp luật.
Bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình phù hợp với nội dung bản cáo trạng, không bào chữa, không tranh luận. Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt để có cơ hội sửa chữa sai lầm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Quận 1, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 1, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Lời nhận tội của bị cáo Lâm Văn T tại phiên tòa phù hợp với các tài liệu và chứng cứ khác như biên bản bắt người phạm tội quả tang; Kết luận giám định số 1385/KLGĐ – H ngày 18/8/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự – Công an Thành phố Hồ Chí Minh đã đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 11 giờ 50 phút ngày 11/8/2020, tại trước nhà số 119 đường Nguyễn Thái Học, phường Cầu Ông Lãnh, Quận 1, Lâm Văn T có hành vi cất trữ 0,1279 gam (không phẩy một hai bảy chín gam) ma túy ở thể rắn, loại Heroin nhằm mục đích sử dụng cho bản thân. Hành vi của bị cáo Lâm Văn T đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm được qui định tại điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 như cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân Quận 1 truy tố là có căn cứ, đúng pháp luật.
[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, làm ảnh hưởng xấu đến trật trị trị an ở địa phương và tiếp tay cho những phần tử xấu duy trì tệ nạn ma túy. Khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo. Xét thấy bị cáo là đối tượng có nhân thân xấu, có thời gian dài chấp hành án do vi phạm pháp luật, chưa được xoá tiền sự do hành vi sử dụng trái phép chất ma tuý nên cần có mức hình phạt nghiêm khắc tương xứng với hành vi phạm tội và nhân thân bị cáo mới có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung trong xã hội. Tuy nhiên, quá trình điều tra, truy tố và xét xử bị cáo luôn thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải do đó phần lượng hình có xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật đối với người phạm tội và tạo cơ hội cho bị cáo để sửa chữa sai lầm.
[4] Áp dụng hình phạt bổ sung, phạt bị cáo số tiền 5.000.000 đồng để sung quỹ nhà nước.
[5] Kiến nghị Cơ quan cảnh sát điều tra tiếp tục xác minh làm rõ người đàn ông (chưa rõ lai lịch) là đối tượng đã bán ma túy cho bị cáo, khi nào đủ cơ sở xử lý sau.
[6] Về xử lý vật chứng: Thu giữ của Lâm Văn T 01 (một) xe mô tô biển kiểm soát số 70K8-1331 và 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia, số Imei: 355740/06/360108/4. Quá trình điều tra và tại phiên tòa có cơ sở xác định Tiến đã điều khiển phương tiện trên để mua ma túy sử dụng tuy nhiên Tiến không phải là chủ sở hữu của phương tiện. Do đó giao cơ quan thi hành án tiếp tục đăng tin tìm chủ sở hữu hợp pháp nếu tìm được chủ sở hữu hợp pháp thì trả lại, nếu không tìm được chủ sở hữu thì tịch thu tài sản trên để sung quỹ Nhà nước. Đối với điện thoại di động hiệu Nokia, là tài sản của bị cáo không liên quan đến vụ án nên trả lại cho bị cáo Tiến nhưng tạm giữ để đảm bảo khả năng thi hành án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo Lâm Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
- Căn cứ vào điểm c Khoản 1, Khoản 5 Điều 249; điểm s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015: Xử phạt Lâm Văn T 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 11/8/2020, tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án. Thời hạn tạm giam là 45 (bốn mươi lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án ngày 07/12/2020.
Phạt tiền bị cáo Lâm Văn T số tiền 5.000.000 đồng (năm triệu đồng) để sung quỹ nhà nước.
- Căn cứ vào Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: Tịch thu tiêu hủy 01 gói niêm phong còn lại sau giám định có các chữ ký ghi tên giám định viên Trần Đình Hải và Điều tra viên Mai Thị Lệ Quyên, ghi số vụ 1385/20Q1 (theo Phiếu nhập kho vật chứng số 189/20-PNK ngày 14/9/2020 của Công an Quận 1) Giao cho Cơ quan thi hành án dân sự thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng để tìm chủ sở hữu đối với xe máy 01 chiếc xe mô tô biển số 70K8-1331, số khung RLCN2B5205Y029609, số máy: 2B5229609 do bà Lê Thị R đứng tên sở hữu. Trong thời hạn 30 (ba mươi) ngày kể từ ngày đăng thông báo nếu tìm được chủ sở hữu hợp pháp thì trả lại tài sản trên. Quá thời hạn này mà không tìm được chủ sở hữu thì tịch thu tài sản trên để sung quỹ Nhà nước. Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động hiệu Nokia, số Imei 355740/06/360108/4, nhưng tạm giữ để đảm bảo khả năng thi hành án (theo Phiếu nhập kho vật chứng số 177/20-PNK ngày 03/9/2020 của Công an Quận 1)
- Căn cứ vào Điều 135; Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng).
- Căn cứ vào Điều 331, Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015: Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 165/2020/HS-ST ngày 07/12/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 165/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận 1 - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 07/12/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về