Bản án 165/2019/HS-ST ngày 31/12/2019 về trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHỦ LÝ - TỈNH HÀ NAM

 BN ÁN 165/2019/HS-ST NGÀY 31/12/2019 VỀ TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 31 tháng 12 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 160/2019/TLHS-HS ngày 29 tháng 11 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 169/2019/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 12 năm 2019, đối với bị cáo:

Triệu Văn T, sinh năm 1998 tại Hà Nam; tên gọi khác: không; nơi ĐKNKTT, chỗ ở: thôn DL, xã CG, huyện DT, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 07/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Thiên chúa giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Triệu Văn A, sinh năm 1970 và bà Hoàng Thị Q, sinh năm 1974; vợ, con: Chưa có; tiền án: Ngày 12/6/2018 Tòa án nhân dân huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam xử phạt 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 25/4/2015 Tòa án nhân dân quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội xử phạt 07 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 27/9/2019 đến nay; hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hà Nam; có mặt.

* Bị hại:

1. Bà Lê Thị L, sinh năm 1956.

2. Anh Nguyễn Quốc Tr, sinh năm 1991.

Cùng trú tại: Tổ dân phố BL2, phường TC, thành phố PL, tỉnh Hà Nam. Tại phiên tòa, bà L và anh Tr đều vắng mặt.

* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Anh Lê Bá H, sinh năm 1978. Trú tại: Tổ dân phố BL2, phường TC, thành phố PL, tỉnh Hà Nam. Vắng mặt.

2. Anh Phạm Văn H1, sinh năm 1980. Trú tại: Đội 6, thị trấn HM, huyện DT, tỉnh Hà Nam. Vắng mặt.

3. Anh Nguyễn Duy T1, sinh năm 1992. Trú tại: Thôn TT 3, xã TV, huyện DT, tỉnh Hà Nam. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

 Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Sáng ngày 25/9/2019, Triệu Văn T và Nguyễn Duy T1 đi đến phường TC, thành phố Phủ Lý chơi với bạn và thuê phòng nghỉ tại nhà nghỉ Ánh Hồng thuộc tổ dân phố BL2, phường TC, thành phố Phủ Lý. Đến khoảng 14 giờ ngày 26/9/2019 do không có tiền để thanh toán tiền phòng nên T bảo T1 ở nhà nghỉ đợi để T về nhà lấy tiền. T đi bộ ra khỏi nhà nghỉ trên quốc lộ 1A hướng từ thành phố Phủ Lý về huyện Duy Tiên được khoảng 10m thì phát hiện nhà bà Lê Thị L không có ai ở nhà nên nảy sinh ý định trộm cắp tài sản. T trèo qua hàng rào cổng rồi đi vào trong sân nhà bà L, nhìn qua cửa sổ thấy tại giường ngủ kê sát cạnh cửa sổ gian buồng ngủ có 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6s màu vàng. T thò tay qua cửa sổ để lấy điện thoại nhưng không với được nên đi ra vườn nhà bà L lấy 01 đoạn ống nước bằng nhựa màu xanh dài 1,72m đường kính 2,1cm khều lấy được chiếc điện thoại Iphone 6s màu vàng bỏ vào túi quần. Lúc này, T nhìn thấy trên bàn kê cạnh giường ngủ có 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy Grand Prime màu trắng. Do không dùng gậy lấy được nên T đi xuống bếp chui qua khe hở cửa bếp rồi đi lên buồng ngủ nhà bà L lấy chiếc điện thoại Samsung Galaxy Grand Prime màu trắng rồi chui qua cửa bếp ra ngoài.

Khi ra đường, T vẫy taxi của anh Lê Bá H rồi quay lại nhà nghỉ Ánh Hồng để đón T1. T mượn của anh H 170.000đ trả tiền phòng nghỉ rồi cùng T1 lên xe taxi đi về nhà anh Phạm Văn H1. Trên đường đi T1 thấy T cầm trên tay ba chiếc điện thoại di động, trong đó có hai chiếc điện thoại di động không phải của T liền hỏi “điện thoại đâu thế” thì T nói “điện thoại lấy ở nhà xuống”. Khi về gần đến nhà anh H1 thì T đưa hai chiếc điện thoại trộm cắp được cho T1 và bảo T1 đem bán để lấy tiền trả taxi. Khoảng 17 giờ cùng ngày, T1 vào nhà anh H1 hỏi mượn tiền nhưng anh H1 không cho mượn. Sau đó, T đi về nhà, còn T1 lên xe taxi và bảo anh H chở về nhà ở xã Trác Văn, huyện Duy Tiên xin tiền mẹ để trả tiền taxi nhưng không được nên đã đưa chiếc điện thoại Samsung Galaxy Grand Prime màu trắng cho anh Lê Bá H và xin số điện thoại để khi có tiền sẽ chuộc. Sau đó T1 quay lại nhà anh H1, cầm cố chiếc điện thoại Iphone 6s màu vàng cho anh H1 được 200.000đ.

Vật chứng thu giữ gồm: 01 chiếc điện thoại Iphone 6s màu vàng do anh Phạm Văn H1 giao nộp; 01 điện thoại Samsung Galaxy Grand Prime màu trắng do anh Lê Bá H giao nộp; 01 đoạn ống nước bằng nhựa màu xanh dài 1,72m, đường kính 2,1cm thu trong quá trình khám nghiệm hiện trường.

Ngày 27/9/2019 Triệu Văn T đã đến trụ sở Công an thành phố Phủ Lý đầu thú và khai nhận toàn bộ hành vi của mình.

Ngày 27/9/2019 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Phủ Lý tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Triệu Văn T ở thôn DL, xã CGi, huyện DT, quá trình khám xét không thu giữ đồ vật, tài sản gì L quan.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 82/2019 ngày 03/10/2019 của Hội đồng định giá tài sản thành phố Phủ Lý kết luận: “01 chiếc điện thoại Iphone 6s màu vàng, IMEI: 35542607379816, máy đã qua sử dụng giá trị còn 2.200.000đ, 01 chiếc điện thoại Samsung Galaxy Grand Prime màu trắng, IMEI:355313/07/764040/5 máy đã qua sử dụng giá còn: 800.000đ” Tại bản cáo trạng số 01/CT-VKS-PL ngày 28/11/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý đã truy tố Triệu Văn T về tội: “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa: Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam luận tội: Giữ nguyên quan điểm truy tố đối với Triệu Văn T theo toàn bộ nội dung bản cáo trạng, không có ý kiến thay đổi, bổ sung gì. Sau khi phân tích tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 50 của Bộ luật Hình sự; xử phạt Triệu Văn T mức án từ 24 đến 30 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Về hình phạt bổ sung: không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Về trách nhiệm dân sự: Bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có yêu cầu nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét. Về xử lý vật chứng: Đề nghị áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 đoạn ống nhựa dài 1,72m, đường kính 2,1cm, màu xanh đã qua sử dụng.

Bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình cơ bản như bản cáo trạng đã mô tả và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Đối với người tham gia tố tụng là bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa nhưng trong hồ sơ vụ án đã có đầy đủ lời khai của họ, được cơ quan điều tra tiến hành lấy lời khai theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Do vậy Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử theo quy định của pháp luật.

[3] Đánh giá về tội danh: Tại phiên tòa bị cáo Triệu Văn T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý đã nêu. Lời khai nhận của bị cáo được thẩm tra tại phiên tòa phù hợp chứng cứ khác của vụ án như biên bản thu giữ vật chứng, lời khai của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, kết quả định giá tài sản và các tài liệu khác trong hồ sơ vụ án. Như vậy Hội đồng xét xử có đủ căn cứ và cơ sở kết luận: Khoảng 14 giờ ngày 26/9/2019 tại nhà bà Lê Thị L ở tổ dân phố BL2, phường TC, thành phố PL, lợi dụng sơ hở trong việc quản lý tài sản, Triệu Văn T đã lén lút trộm cắp 01 chiếc điện thoại Samsung Galaxy Grand Prime màu trắng trị giá 800.000đ của bà Lê Thị L và 01 điện thoại Iphone 6s màu vàng trị giá 2.200.000đ của anh Nguyễn Quốc Tr. Tổng giá trị tài sản Triệu Văn T chiếm đoạt của bà L, anh Tr là 3.000.000đ. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự. Quan điểm truy tố và luận tội của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý đối với bị cáo là có căn cứ, phù hợp pháp luật.

[4] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo có một tiền án chưa được xóa án tích, lần phạm tội này bị cáo phải chịu một tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là tái phạm được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đều thành khẩn khai nhận về hành vi phạm tội của mình, sau khi phạm tội bị cáo ra đầu thú, nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Về nhân thân: Bị cáo là người có nhân thân xấu đã từng bị xét xử nhiều lần về tội “Trộm cắp tài sản”, tuy nhiên bị cáo không lấy đó làm bài học để rèn luyện chính mình mà vẫn trượt dài trên con đường phạm tội.

[5] Về hình phạt chính, hình phạt bổ sung:

Về hình phạt chính: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm hại đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ. Hành vi phạm tội của bị cáo còn thể hiện sự liều lĩnh, coi thường pháp luật ở chỗ bản thân là người đã nhiều lần bị kết án phạt tù về tội “Trộm cắp tài sản”, nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học cảnh tỉnh, tu dưỡng bản thân mà sau khi chấp hành xong hình phạt tù lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội. Hành vi của bị cáo gây mất trật tự trị an khu dân cư, tạo nên tâm lý lo ngại, bức xúc trong nhân dân. Hành vi của bị cáo được thực hiện bởi lỗi cố ý. Vì vậy cần có hình phạt nghiêm, tương xứng tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội mà bị cáo thực hiện, cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng cải tạo, giáo dục đối với bị cáo và nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm.

Về hình phạt bổ sung: Xét thấy không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Xử lý vật chứng:

Đối với 01 điện thoại di động Samsung Galaxy Grand Prime màu trắng là tài sản hợp pháp của bà Lê Thị L và 01 điện thoại di động Iphone 6s màu vàng là tài sản hợp pháp của anh Nguyễn Quốc Tr (con bà L). Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Phủ Lý đã trả lại các tài sản trên cho bà L, anh Tr là phù hợp quy định của pháp luật.

Đối với 01 đoạn ống nhựa dài 1,72m, đường kính 2,1cm màu xanh đã cũ T sử dụng làm công cụ phạm tội là tài sản của L, tuy nhiên bà L không có yêu cầu nhận lại do không còn giá trị sử dụng, nên cần tịch thu tiêu hủy.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại bà Lê Thị L, anh Nguyễn Quốc Tr và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án là anh Lê Bá H và anh Phạm Văn H1 đều không có yêu cầu, đề nghị gì về trách nhiệm dân sự nên không đặt ra xem xét.

[8] Các tình tiết khác của vụ án: Đối với Nguyễn Duy T1 là người mà T đưa điện thoại mang đi bán, anh Phạm Văn H1 là người nhận cầm cố điện thoại của T1 và anh Lê Bá H là người mà T1 đã đưa điện thoại để trả tiền taxi đều không biết những tài sản này do T trộm cắp mà có. Do đó Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Phủ Lý không xử lý đối với T1, H1, H là phù hợp với quy định của pháp luật.

[9] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[10] Quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ L quan đến vụ án được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 47; Điều 50 của Bộ luật Hình sự.

Căn cứ các Điều 106; 136; 331; 333 của Bộ luật Tố tụng Hình sự.

Căn cứ Luật Phí và Lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015 của Quốc hội và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1/ Tuyên bố bị cáo Triệu Văn T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt bị cáo Triệu Văn T 24 (hai mươi bốn) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 27 tháng 9 năm 2019.

2/ Xử lý vật chứng:

Tịch thu tiêu hủy 01 (một) đoạn ống nhựa dài 1,72m, đường kính 2,1cm, màu xanh đã qua sử dụng.

Tình trạng vật chứng như trong biên bản giao nhận vật chứng lập ngày 06/12/2019 giữa Cơ quan CSĐT Công an thành phố Phủ Lý với Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Phủ Lý.

3/ Án phí hình sự sơ thẩm: Buộc bị cáo Triệu Văn T phải nộp: 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng).

Quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, 7, 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành bản án được quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

226
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 165/2019/HS-ST ngày 31/12/2019 về trộm cắp tài sản

Số hiệu:165/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phủ Lý - Hà Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/12/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về