Bản án 165/2019/HS-ST ngày 23/09/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỘC CHÂU, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 165/2019/HS-ST NGÀY 23/09/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 23 tháng 9 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 168/2019/TLST-HS ngày 12/9/2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 169/2019/QĐXXST-HS ngày 12/9/2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Minh T, sinh năm: 1983 tại huyện M, tỉnh S; nơi cư trú: Tiểu khu 2, thị trấn M, huyện M, tỉnh S; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn): 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Minh T và bà Nguyễn Thị N; bị cáo có vợ là Hoàng Thị H và chưa có con; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 08/7/2009, bị Tòa án nhân dân thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La xử phạt 24 tháng về tội Mua bán trái phép chất ma túy (đã được xóa án tích); Ngày 02/4/2013, Chủ tịch UBND huyện Mộc Châu ra quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện tại Trung tâm giáo dục lao động tỉnh Sơn La; bị cáo bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 19/6/2019 đến nay. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 10 giờ ngày 19/6/2019, Nguyễn Minh T đi bộ từ nhà đến khu vực chợ Trung tâm huyện Mộc Châu thuê xe ôm của một người đàn ông không quen biết chở Tiến đi đến bản Co Sung, xã Đông Sang, huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La mục đích tìm mua ma túy để sử dụng. Khi đến nơi, Tiến xuống xe trả tiền xe ôm hết 50.000 đồng, rồi Tiến một mình đi bộ vào trong bản Co Sung. Khi Tiến đang đi trên đường dân sinh của bản Co Sung thì gặp một cháu gái dân tộc Mông không quen biết, khoảng 15 tuổi. Qua trao đổi, Tiến hỏi và mua được của người đó 01 gói nilon màu xanh bên trong đựng 02 viên Methamphetamine với giá 50.000 đồng. Sau khi mua được ma túy, Tiến cầm gói ma túy ở lòng bàn tay phải rồi đi bộ ra đầu bản Co Sung để tìm địa điểm sử dụng ma túy. Đến 11 giờ 20 phút cùng ngày, khi Tiến đang đi tìm địa điểm để sử dụng ma túy thì bị tổ công tác Công an huyện Mộc Châu làm nhiệm vụ kiểm tra, phát hiện và bắt quả tang về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Vật chứng thu giữ: 01 gói nilon màu xanh bên trong đựng 02 viên nén màu hồng nghi là Methamphetamine.

Ngày 19/6/2019, cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an huyện Mộc Châu phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu và phòng Kỹ thuật Hình sụ - Công an tỉnh Sơn la đã tiến hành mở niêm phong, xác định số lượng, khối lượng các viên nén màu hồng nghi là Methamphetamine thu giữ của Nguyễn Minh T được: 02 viên có tổng khối lượng 0,19 gam, lấy 01 viên có khối lượng 0,1 gam làm mẫu gửi giám định, mẫu ký hiệu “T”. Trưng cầu giám định xác định có phải ma túy không, loại ma túy gì, khối lượng của mẫu gửi giám định là bao nhiêu? Tổng khối lượng vật chứng thu giữ?

Tại bản kết luận giám định số 1126 ngày 21/6/2019 của phòng Kỹ thuật Hình sự - Công an tỉnh Sơn La kết luận: "Mu gửi giám đnh ký hiệu T là ma túy; loại chất Methamphetamine; tổng khối lượng mẫu gửi giám định là 0,1 gam; Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,19 gam, loại Methamphetamine".

Đối với cháu gái dân tộc Mông đã bán ma túy cho Nguyễn Minh T vào ngày 19/6/2019. Quá trình điều tra không xác định được lai lịch, địa chỉ nên không có căn cứ để điều tra, xử lý.

Bản cáo trạng số 168/CT-VKSMC ngày 11/9/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu truy tố bị can Nguyễn Minh T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu giữ nguyên cáo trạng truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Minh T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và áp dụng các căn cứ pháp luật như sau:

1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự:

Xử phạt bị cáo Nguyễn Minh T từ 21 tháng đến 24 tháng tù.

Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

2. Căn cứ khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 1, 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong bên trong đựng 01 viên nén màu hồng có khối lượng 0,09 gam, loại Methamphetamine cùng vỏ gói niêm phong ban đầu; 01 phong bì niêm phong bên trong đựng test thử ma túy của Nguyễn Minh T.

3. Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, bị cáo nhất trí với cáo trạng và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát. Lời nói sau cùng: Bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng: Các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mộc Châu, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến, khiếu nại về hành vi của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi và trách nhiệm hình sự của bị cáo:

Tại phiên tòa, bị cáo giữ nguyên lời khai như đã khai tại Cơ quan điều tra, không thay đổi, bổ sung thêm nội dung gì. Bị cáo hoàn toàn nhất trí với bản cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu. Xét lời khai của bị cáo là hoàn toàn tự nguyện, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang ngày 19/6/2019, phù hợp với vật chứng đã thu giữ, biên bản mở niêm phong xác định số lượng, khối lượng, lấy mẫu giám định, kết luận giám định, lời khai của người chứng kiến và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Do vậy có đủ căn cứ khẳng định: Ngày 19/6/2019, bị cáo Nguyễn Minh T đã thực hiện hành vi cất giấu trái phép 0,19 gam Methamphetamine nhằm mục đích sử dụng cho bản thân. Hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự quy định phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

Xét hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ quản lý chất ma túy của Nhà nước, làm ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương.

Xét về nhân thân thấy rằng bị cáo có nhân thân xấu, là đối tượng nghiện hút chất ma túy, nhận thức rõ tác hại của ma túy và việc cất giữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn thực hiện. Do đó cần phải cách ly bị cáo ra ngoài đời sống xã hội một thời gian là cần thiết, có như vậy mới có tác dụng răn đe, giáo dục, phòng ngừa chung.

[3] Về tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[4] Về hình phạt bổ sung - phạt tiền: Quá trình điều tra, xác minh và xét hỏi tại phiên tòa thấy bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, không có tài sản riêng gì có giá trị. Do đó không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

[5] Đối với cháu gái dân tộc Mông đã bán ma túy cho Nguyễn Minh T vào ngày 19/6/2019. Quá trình điều tra không xác định được lai lịch, địa chỉ nên không có căn cứ để điều tra, xử lý.

Đối với người đàn ông lái xe ôm đã chở Nguyễn Minh T đến bản Co Sung, xã Đông Sang, huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La ngày 19/6/2019 để mua ma túy. Quá trình điều tra không xác định được lai lịch, địa chỉ nên không có căn cứ để điều tra, xử lý.

[6] Về vật chứng của vụ án:

Đối với 01 phong bì niêm phong bên trong đựng 01 viên nén màu hồng có khối lượng 0,09 gam, loại Methamphetamine cùng vỏ gói niêm phong ban đầu; 01 phong bì niêm phong bên trong đựng test thử ma túy của Nguyễn Minh T. Xét là chất ma túy và đồ vật liên quan, vật không có giá trị sử dụng, cần tịch thu tiêu hủy.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[8] Thời hạn tạm giam của bị cáo còn trên 45 ngày do đó Hội đồng xét xử không ra quyết định tạm giam đối với bị cáo.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Minh T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Minh T 24 (Hai mươi bốn) tháng tù. Thời hạn tù của bị cáo tính từ ngày 19/6/2019. Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

2. Căn cứ khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 1, 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong bên trong đựng 01 viên nén màu hồng có khối lượng 0,09 gam, loại Methamphetamine cùng vỏ gói niêm phong ban đầu; 01 phong bì niêm phong bên trong đựng test thử ma túy của Nguyễn Minh T.

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Nguyễn Minh T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng).

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

204
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 165/2019/HS-ST ngày 23/09/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:165/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mộc Châu - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về