Bản án 164/2019/HSST ngày 08/10/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI BÌNH, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 164/2019/HSST NGÀY 08/10/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 08 tháng 10 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm, công khai vụ án hình sự thụ lý số 164/2019/HSST ngày 28 tháng 8 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 171/2019/QĐXXST-HS ngày 24 tháng 9 năm 2019, đối với bị cáo:

Nhâm Văn Đ, sinh ngày 16 tháng 6 năm 1993 tại T; Nơi cư trú: thôn Q, xã V, huyện K, tỉnh T; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nhâm Văn T và bà Mai Thị N; Có vợ là Lại Thị T và 01 con sinh năm 2016; Tiền án, tiền sự: không; Bị tạm giữ từ ngày 03/6/2019 đến ngày 06/6/2019 chuyển tạm giam đến nay; Trích xuất, Có mặt.

* Người chứng kiến:

- Ông Nguyễn Văn L, sinh năm 1966; Trú tại: số nhà 19, tổ 09, phường T, thành phố T, tỉnh T. Vắng mặt

- Ông Đào Vinh Q, sinh năm 1954; Trú tại: số nhà 10, tổ 07, phường T, thành phố T, tỉnh T. Vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 01 giờ 30 phút ngày 03/6/2019, Nhâm Văn Đ đi bộ đến khu vực nhà văn hóa thôn Đ2, xã P, thành phố T thì gặp một người nam giới tên T khoảng 50 tuổi không rõ họ tên đầy đủ, không biết địa chỉ, điều khiển xe mô tô (không rõ đặc điểm, biển số). Người nam giới tên T rủ Đ đi mua ma túy về sử dụng chung, nhưng Đ không có tiền nên T đưa cho Đ 300.000 đồng. Đ cầm tiền cho vào túi quần bên phải đang mặc, sau đó T điều khiển xe mô tô chở Đ đến khu vực đường L, tổ 02, xã P, thành phố T thì dừng xe đứng ngoài chờ còn Đ đi bộ vào trong khu vực đường Q, tổ 02, xã P, thành phố T. Tại đây, Đ gặp và mua của một người phụ nữ tên Q khoảng 30 tuổi (không biết họ tên đầy đủ và địa chỉ) 01 túi ma túy với giá 300.000 đồng. Đ cất gói ma túy vừa mua vào túi quần bên phải đang mặc, đi bộ ra chỗ T đứng chờ. Đến 02 giờ cùng ngày, khi Đ đi đến khu vực tổ 05, đường Q, phường T, thành phố T thì bị tổ công tác của Công an phường T, thành phố T yêu cầu kiểm tra. Trước sự chứng kiến của ông Nguyễn Văn L và ông Đào Quang V, Đ tự giác lấy từ túi quần bên phải giao nộp cho tổ công tác một túi nilon trong suốt có mép cài, viền màu xanh, bên trong có chứa chất dạng tinh thể trong suốt, Đ khai là ma túy đá Đ vừa mua để Đ và T cùng sử dụng. Thu tại túi quần bên phải của Đ một điện thoại Iphone 6 màu trắng xám đã cũ. Sau đó tổ công tác lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản niêm phong vật chứng.

Tại bản kết luận giám định số 202/KLGĐ-PC09 ngày 03/6/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình kết luận: Chất tinh thể trong suốt trong phong bì niêm phong ghi “Vật chứng thu giữ của Nhâm Văn Đ ngày 03/6/2019 là ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng 0,4389gam”.

Tại bản cáo trạng số 171/CT-VKSTP ngày 27 tháng 8 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình truy tố Nhâm Văn Đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, trong phần tranh luận Kiểm sát viên luận tội bị cáo giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố Nhâm Văn Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Điều 50 Bộ luật Hình sự, đề nghị xử phạt Nhâm Văn Đ mức án từ 01 năm đến 01 năm 03 tháng tù; Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 46; 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự đề nghị: Tịch thu số ma túy trong phong bì niêm phong số 202/KLGĐ mẫu vật hoàn lại sau giám định để tiêu hủy; Tuyên trả lại cho Nhâm Văn Đ 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 màu trắng xám, đã cũ. Nhưng quản lý để đảm bảo thi hành án. Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, Nhâm Văn Đ đã khai và thừa nhận toàn bộ hành vi của mình như nội dung bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình đã truy tố và không có ý kiến tranh luận với luận tội của kiểm sát viên.

Khi trình bày lời nói sau cùng Bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Thái Bình, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, người tham gia tố tụng không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng theo quy định của pháp luật.

[2] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của những người chứng kiến là ông Nguyễn Văn L và ông Đào Quang V được chứng minh bằng biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản niêm phong vật chứng và bản kết luận giám định 202/KLGĐ-PC09 ngày 03/6/2019 cùng các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử đã có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 02 giờ ngày 03/6/2019, tại khu vực đường Q, thuộc tổ 05, phường T, thành phố Thái Bình Nhâm Văn Đ đã bị Công an bắt quả tang tàng trữ trái phép 0,4389 gam Methamphetamine, mục đích để sử dụng cho bản thân.

[3] Bị cáo là người trên 18 tuổi, có đầy đủ năng lực nhận thức và điều khiển hành vi của mình, hiểu rõ tác hại của ma túy và hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy bị pháp luật nghiêm cấm nhưng vẫn cố ý thực hiện. Hành vi đó của Nhâm Văn Đ đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tội phạm và hình phạt quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình truy tố là có căn cứ.

Điều 249 Bộ luật hình sự quy định:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xut trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

a)

c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam".

[4] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo thấy: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quy định quản lý của Nhà nước về chất gây nghiện, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự và an toàn xã hội, đi ngược lại cuộc đấu tranh quyết liệt của nhà nước và nhân dân ta nhằm đẩy lùi, loại bỏ tệ nạn ma túy ra khỏi đời sống xã hội nên tính chất vụ án là nghiêm trọng, cần xử phạt nghiêm minh trước pháp luật.

[5] Xét về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thấy: Bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng nào theo quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, bản thân có thời gian tham gia nghĩa vụ quân sự nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, đặc điểm nhân thân và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, Hội đồng xét xử lên mức án tương xứng với hành vi phạm tội, đồng thời cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian là cần thiết nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm nói chung.

[6] Bị cáo tàng trữ Methamphetamine với mục đích để sử dụng do nghiện ma túy, bản thân không có việc làm, thu nhập không ổn định nên không cần thiết áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[7] Về nguồn gốc số ma túy, bị cáo khai mua của một người phụ nữ tên Q, tiền mua ma túy do nam giới tên T đưa mua sử dụng chung. Quá trình điều tra đã xác minh nhưng Cơ quan điều tra không có căn cứ xử lý.

[8] Về xử lý vật chứng: Số ma túy thu giữ hoàn lại sau giám định là chất thuộc danh mục Nhà nước cấm lưu hành cần tịch thu để tiêu hủy. Đối với chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 màu trắng xám quản lý của bị cáo, qua điều tra xác định các tài sản trên không liên quan đến tội phạm nên trả lại cho bị cáo là phù hợp.

[9] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 38; Điều 46; Điều 47; Điều 50 Bộ luật Hình sự.

Căn cứ Điều 106; khoản 2 Điều 136; Điều 331; Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.

Căn cứ Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội; khoản 1 Mục I Danh mục án phí, lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố bị cáo Nhâm Văn Đ phạm tội "Tàng trữ trái phép cht ma túy".

2. Hình phạt: Xử phạt bị cáo Nhâm Văn Đ 01 (một) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ 03/6/2019.

3. Về xử lý vật chứng:

Tịch thu 0,3807 gam Methamphetamine niêm phong trong phong bì số 202/KLGĐ (mẫu vật hoàn trả sau giám định) để tiêu hủy.

Trả lại cho Nhâm Văn Đ 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 màu trắng xám. Nhưng quản lý để đảm bảo thi hành án.

(Vật chứng và tài sản đã chuyển Chi cục Thi hành án dân sự thành ph Thái Bình quản lý có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng ngày 27/8/2019).

4. Về án phí: Bị cáo Nhâm Văn Đ phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo: Bị cáo Nhâm Văn Đ được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm 08/10/2019.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

221
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 164/2019/HSST ngày 08/10/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:164/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Bình - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về