Bản án 163/2019/HS-ST ngày 20/05/2019 về tội cướp giật tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 163/2019/HS-ST NGÀY 20/05/2019 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 20 tháng 5 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 177/2019/HSST ngày 27 tháng 3 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 1959/2019/QĐXXST-HS ngày 03 tháng 5 năm 2019 đối với bị cáo:

Đ T A S, tên gọi khác: Sang Nhóc; sinh ngày: 09/8/2002; Tại: TP H; Hộ khẩu thường trú: 670/59/18/3 đường Đ V B, Phường N, Quận M, TP H; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 6/12; Con ông H (chết) và bà Đ T M; Tiền án, tiền sự: Không có; Nhân thân: Ngày 19/11/2018 bị Tòa án nhân dân Quận N xử phạt 01 (một) năm tù về tội:” Cướp giật tài sản” nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 02 (hai) năm; Bị cáo bị tạm giam từ ngày 29/12/2018 (có mặt).

Bị hại: Ông J, sinh năm: 1985 (Quốc tịch Hàn Quốc) Cư trú: Phòng 1312 Khách sạn H số 88 Đồng Khởi- Quận M- Thành phố H (vắng mặt).

Luật sư : Bà B T C N là Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước thành phố N bào chữa cho bị cáo Đ T A S (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào Khoảng 22giờ 00 ngày 28/12/2018, một người tên K (chưa rõ lai lịch) điều khiển xe mô tô hiệu Airblade (không rõ biển số) chở Đ T A S đi lòng vòng chơi, khi đến trước nhà số 120 Cống Quỳnh, phường M, Quận N thì K phát hiện anh J (Quốc tịch Hàn Quốc) đứng dưới lòng đường giao lộ Cống Quỳnh - Bùi Viện đang sử dụng điện thoại di động, K rủ Sang cướp giật, S đồng ý K liền điều khiển xe chạy ngược chiều áp sát trước mặt anh J để S ngồi sau dùng tay trái giật chiếc điện thoại di dộng của anh S rồi tăng ga bỏ chạy về hướng Cống Quỳnh - Nguyễn Cư Trinh, do lúc do mật độ lưu thông đông nên xe của K chạy tốc độ chậm, anh J chạy đuổi theo khoảng 10m thì giật lại được chiếc điện thoại trên tay Sang, lúc này có các trinh sát hình sự Công an Quận N trên đường tuần tra phát hiện bắt giữ được Sang đưa về trụ sở Công an phường L, Quận N lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, riêng K điều khiển xe tấu thoát.

Tại bản kết luận số 994/KL-HĐĐGTS ngày 21/02/2019 của Hội đồng định giá tài sản thường xuyên trong tố tụng hình sự cấp Thành phố N kết luận: Một chiếc điện thoại di dộng hiệu Samsung Galaxy Note8, màu vàng, 64Gb đã qua sử dụng có giá trị vào thời điểm ngày 28/12/2018 là 7.537.000đ Vật chứng: 01 chiếc điện thoại di dộng hiệu Samsung Galaxy Note8, màu vàng, 64Gb (đã trả cho bị hại) Tại Cơ quan cảnh sát Điều tra Công an, Đ T A S đã khai nhận: Vào khoàng 22g00 phút, ngày 28/12/2019 một người tên K (chưa rõ lai lịch) điều khiển xe mô tô hiệu Airblade (không rõ biển số) chở Đ T A S đi lòng vòng chơi, khi đến trước nhà số 120 Cống Quỳnh, phường M, Quận N thì K phát hiện anh J (Quốc tịch Hàn Quốc) đứng dưới lòng đường giao lộ Cống Quỳnh - Bùi Viện đang sử dụng điện thoại di động, K rủ Sang cướp giật, Sang đồng ý, K liền điều khiển xe chạy ngược chiều áp sát trước mặt anh Jeong Hohyeon để Sang ngồi sau dùng tay trái giật chiếc điện thoại di dộng của anh J rồi tăng ga bỏ chạy, do mật độ lưu thông đông nên xe của J không chạy nhanh được, anh J chạy đuổi theo khoảng 10m thì giật lại được chiếc điện thoại trên tay Sang, lúc này có các trinh sát hình sự Công an Quận N trên đường tuần tra phát hiện bắt giữ được Sang đưa về trụ sở Công an phường M, Quận N lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, riêng K điều khiển xe tẩu thoát.

Vật chứng; 01 chiếc điện thoại di dộng hiệu Samsung Galaxy Note8, màu vàng, 64Gb (đã trả cho bị hại).

Ngoài ra, cơ quan điều tra còn thu giữ của bị cáo: (01) một ĐTDĐ Iphone 6, màu bạc, số Imei: 358370069529456 (đã qua sử dụng, không rõ tình trạng bên trong) và 01 (một) thẻ CCCD mang tên Đ T A S.

Bản cáo trạng số: 125/CT-VKS-P2 ngày 22 tháng 3 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân M đã truy tố bị cáo Đ T A S về tội: “Cướp giật tài sản” theo điểm d Khoản 2 Điều 171 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội đúng như bản Cáo trạng đã quy kết, và truy tố đối với bị cáo, không oan sai.

Trong phần luận tội, sau khi đại diện Viện kiểm sát nhân dân H kiểm tra toàn diện các chứng cứ của vụ án, kiểm tra các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ và đã kết luận có đủ căn cứ để truy tố và xét xử bị cáo về tội “Cướp giật tài sản” theo điểm d Khoản 2 Điều 171 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) như Cáo trạng đã truy tố là đúng người, đúng tội. Bị cáo đã bị Tòa án Quận M xét xử 01 (một) năm tù nhưng cho hưởng án treo, trong thời gian thử thách bị cáo lại phạm tội rất nghiêm trọng mới nhưng do lần phạm tội trước bị cáo chưa đủ 16 tuổi nên không xem đây là tình tiết tái phạm hay tái phạm cũng như không xem đây là tiền án mà chỉ xem là nhân thân đối với bị cáo; Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, khi phạm tội bị cáo chưa đủ 18 tuổi bị rủ rê lôi kéo nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt mà lẽ ra các bị cáo phải chịu. Đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 2 Điều 56, khoản 5 Điều 65, điểm s khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 101, khoản 2 Điều 171 của Bộ luật hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo Đ T A S mức án từ 02(hai) năm đến 03(ba) năm tù, tổng hợp hình phạt 01(một) năm tù của bản án trước.

Về xử lý vật chứng: Bị hại đã được nhận lại tài sản, không có yêu cầu gì khác nên không đề nghị Hội đồng xét xử xem xét.

Ngoài ra, cơ quan điều tra còn thu giữ của bị cáo: (01) một ĐTDĐ Iphone 6, màu bạc, số Imei: 358370069529456 (đã qua sử dụng, không rõ tình trạng bên trong); đây là tài sản riêng của bị cáo không liên quan đến vụ án và 01 (một) thẻ CCCD mang tên Đ T A S thì đề nghị Hội đồng xét xử xem xét trả lại cho bị cáo.

Luật sư bào chữa cho bị cáo Đ T A S có ý kiến:

Thống nhất với tội danh và các điều kiện đề nghị áp dụng điều luật, khung hình phạt của Viện kiểm sát đối với bị cáo, tuy nhiên cũng xin Hội đồng xét xử xem xét thêm một số tình tiết giảm nhẹ sau đây cho bị cáo để bị cáo có một mức án phù hợp với tính chất hành vi phạm tội của mình: Bị cáo xuất thân từ gia đình lao động nghèo, bị cáo mồ côi cha từ nhỏ nên thiếu sự quan tâm, chăm sóc của gia đình, khi phạm tội khi cáo là người chưa thành niên lại bị rủ rê lôi kéo nên ý thức pháp luật còn hạn chế.

Bị cáo không bào chữa bổ sung, không tham gia tranh luận, chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử:

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an H, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân H, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và Luật sư bào chữa không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về chứng cứ xác định có tội:

Lời khai nhận tội của bị cáo Đ T A S tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay hoàn toàn phù hợp với nhau, hành vi phạm tội của bị cáo còn được chứng minh qua biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang, lời khai của người bị hại và người làm chứng là các anh N, anh M là người đã tận mắt chứng kiến hành vi cướp giật tài sản và trực tiếp truy bắt bị cáo. Như vậy, có để cơ sở để kết luận bị cáo Đ T A S đã cùng đồng bọn sử dụng xe gắn máy làm phương tiện giật tài sản của người bị hại, hành vi sai trái này đã cấu thành tội cướp giật tài sản theo điểm d Khoản 2 Điều 171 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) như Cáo trạng đã truy tố là đúng người, đúng tội, không oan sai.

Bị cáo Đ T A S phạm tội rất nghiêm trọng đối với người bị hại là người có quốc tịch nước ngoài, - gây ảnh hưởng rất xấu đến trật tự trị an xã hội. về nhân thân, bị cáo đã bị Tòa án nhân dân Quận N Thành phố H xử phạt 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo – trong thời gian thử thách, bị cáo lại phạm tội mới nghiêm trọng hơn, do vậy cần thiết phải áp dụng hình phạt nghiêm khắc đối với bị cáo thì mới có tác dụng giáo dục và răn đe phòng ngừa chung. Đồng thời, bị cáo còn phải chịu hình phạt tổng hợp của cả 2 bản án theo khoản 5 Điều 65 và Điều 56 của Bộ luật hình sự 2015.

Về tình tiết tăng nặng, Bản án của Tòa án nhân dân Quận H đã xử phạt bị cáo 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về hành vi phạm tội khi bị cáo chưa đủ 16 tuổi nên không tính là tiền án.

Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo khi phạm tội khi chỉ mới 16 tuổi 4 tháng, bị tên Kmai rủ rê lôi kéo, nên áp dụng các nguyên tắc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội và bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo.

Về trách nhiệm dân sự - xử lý vật chứng: Người bị hại là J đã nhận lại chiếc điện thoại di động và không có yêu cầu gì khác.

Riêng một ĐTDĐ Iphone 6, màu bạc, số Imei: 358370069529456 (đã qua sử dụng, không rõ tình trạng bên trong) cơ quan điều tra còn thu giữ của bị cáo xét đây là tài sản riêng của bị cáo không liên quan đến vụ án và 01 (một) thẻ CCCD mang tên Đ T A S thì xem xét trả lại cho bị cáo.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Về quyền kháng cáo: Bị cáo và những người tham gia tố tụng có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Đ T A S phạm tội “cướp giật tài sản” Căn cứ vào điểm d Khoản 2 Điều 171; các Điều 91, 101; điểm s khoản 1 Điều 51, khoản 5 Điều 65 và khoản 2 Điều 56 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) Xử phạt bị cáo Đ T A S 03(ba) năm tù, tổng hợp với hình phạt 01 (một) năm tù theo bản án số 98/2018 ngày 19/11/2018 của Tòa án nhân dân Quận N Thành phố H thì bị cáo phải chấp hành hình phạt chung là 04(bốn) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt giam là: 29/12/2018.

Căn cứ vào Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 47 của Bộ luật Hình sự: Trả lại cho bị cáo Đ T A S: (01) một ĐTDĐ Iphone 6, màu bạc, số Imei: 358370069529456 (đã qua sử dụng, không rõ tình trạng bên trong) và 01 (một) thẻ CCCD mang tên Đ T A S.

(Theo Biên bản giao nhận tang tài vật số: 280/19 ngày 16/5/2019 của Cục Thi hành án dân sự Thành phố H) Căn cứ vào khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự Bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm. Căn cứ vào Điều 331, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

Bị cáo; Luật sư bào chữa có quyền kháng cáo trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày tuyên án. Người đại diện hợp pháp của bị cáo; Bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

183
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 163/2019/HS-ST ngày 20/05/2019 về tội cướp giật tài sản

Số hiệu:163/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về